Làm rõ mục tiêu, tiêu chí hai Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2026 – 2035

Làm rõ mục tiêu, tiêu chí hai Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2026 – 2035
2 giờ trướcBài gốc
Điều chỉnh mục tiêu, lộ trình của Chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục
Phát biểu tại phiên họp, đại biểu Thái Văn Thành (Nghệ An) khẳng định: Chương trình Mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026 – 2035 là giải pháp cấp thiết nhằm cụ thể hóa tinh thần các nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển giáo dục – đào tạo và khoa học – công nghệ. Đại biểu đánh giá việc phân kỳ đầu tư theo hai giai đoạn 2026 – 2030 và 2030 – 2035 với năm dự án thành phần là hợp lý, khả thi và bảo đảm tính đồng bộ với các chương trình mục tiêu quốc gia khác, bao gồm cả Chương trình phát triển văn hóa.
ĐBQH Thái Văn Thành (Nghệ An) phát biểu
Tuy vậy, đại biểu chỉ rõ một hạn chế trong mục tiêu tổng quát khi việc xây dựng hệ thống giáo dục hiện đại mới dừng lại ở yêu cầu đạt chuẩn quốc gia. Trong bối cảnh Việt Nam đặt mục tiêu trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045, chỉ tiêu này được đánh giá là chưa tương xứng. Đại biểu đề nghị nâng mục tiêu tổng quát theo hướng đạt chuẩn quốc gia, khu vực và vươn tầm quốc tế, đồng thời rà soát lại các mục tiêu cụ thể để bảo đảm sự thống nhất, tránh trùng lặp với những chương trình mục tiêu quốc gia khác.
Về nguyên tắc và tiêu chí phân bổ nguồn lực, đại biểu Thái Văn Thành cho rằng, nguyên tắc đã đáp ứng yêu cầu nhưng tiêu chí phân bổ cụ thể còn thiếu rõ ràng, dẫn đến nguy cơ trùng lặp với các chương trình khác như Chương trình xây dựng nông thôn mới hay Nghị quyết 88 của Quốc hội về phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Đại biểu kiến nghị Chính phủ quy định bộ tiêu chí thật cụ thể để các địa phương dựa vào đó phân bổ nguồn lực đúng trọng tâm, công bằng và hiệu quả.
Liên quan đến đội ngũ giáo viên, đại biểu nhấn mạnh yếu tố con người có vai trò quyết định, dù cơ sở vật chất được đầu tư hiện đại đến đâu. Vì vậy, Chương trình cần đưa ra chỉ tiêu định lượng rõ ràng về đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và giảng viên ở nước ngoài, tập trung vào giáo viên phổ thông dạy Tiếng Anh và các môn tự nhiên bằng Tiếng Anh, cùng đội ngũ giảng viên đại học.
Đại biểu đề nghị tăng cường các khóa đào tạo, tập huấn ngắn hạn tại những quốc gia có kinh nghiệm như Singapore, Malaysia, Philippines; đồng thời, bồi dưỡng giáo viên và giảng viên về trí tuệ nhân tạo và các công nghệ nền tảng mới, phù hợp với tinh thần Nghị quyết 57.
Về chỉ số xếp hạng đại học, theo đại biểu Thái Văn Thành, không nên đưa tên cụ thể của các bảng xếp hạng như QS Ranking hay QS Asia vào văn bản pháp luật do các tiêu chí xếp hạng luôn thay đổi. Đại biểu đề xuất chỉ nên nêu mục tiêu theo nhóm thứ hạng trong các bảng xếp hạng quốc tế uy tín để bảo đảm tính linh hoạt.
ĐBQH Trần Đức Thuận (Nghệ An) phát biểu.
Thảo luận về nội dung giáo dục, đại biểu Trần Đức Thuận (Nghệ An) tập trung vào mục tiêu đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai tại 100% cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông vào năm 2035. Đại biểu băn khoăn về tính phù hợp của khái niệm “ngôn ngữ thứ hai” trong bối cảnh hiện nay, khi yêu cầu đặt ra có thể dẫn tới sự so sánh với tiếng mẹ đẻ.
Đại biểu cho rằng, mục tiêu này chưa có cơ sở thực tiễn, đặc biệt khi cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên còn nhiều hạn chế, chất lượng chưa đồng đều giữa các vùng miền. Đại biểu đề nghị điều chỉnh cách tiếp cận theo hướng mềm dẻo hơn, chuyển mục tiêu thành “đẩy mạnh năng lực ngoại ngữ theo chuẩn quốc tế, ưu tiên tiếng Anh”, đồng thời xây dựng lộ trình phù hợp với điều kiện từng vùng và ban hành bộ tiêu chí triển khai cụ thể.
Toàn cảnh phiên thảo luận Tổ 7
Tăng cường khả thi cho Chương trình mục tiêu về sức khỏe – dân số
Ở nội dung về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển, đại biểu Trần Đức Thuận cho rằng: các mục tiêu của Chương trình rất nhân văn nhưng còn quá nhiều và dàn trải. Dự thảo bao quát quá rộng, từ y tế cơ sở, hồ sơ sức khỏe điện tử, kiểm soát bệnh truyền nhiễm, bệnh không lây nhiễm, dinh dưỡng, truyền thông, sức khỏe dân số đến tầm soát sơ sinh. Đại biểu nhấn mạnh nhiều chỉ tiêu trong giai đoạn 2016 – 2025 chưa đạt được, trong khi dự thảo cho giai đoạn mới tiếp tục đặt ra các mục tiêu cao và mang tính ràng buộc. Đặc biệt, mục tiêu 100% người dân có hồ sơ sức khỏe điện tử vào năm 2030 được đánh giá là rất khó khả thi nếu không bảo đảm rằng hồ sơ thực sự phản ánh đúng tình trạng sức khỏe và được cập nhật xuyên suốt theo vòng đời. Đại biểu kiến nghị phân loại mục tiêu theo nhóm bắt buộc và nhóm khuyến khích, đồng thời xây dựng lộ trình phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội từng vùng.
ĐBQH Trần Nhật Minh (Nghệ An) phát biểu
Tiếp tục thảo luận tại tổ, đại biểu Trần Nhật Minh (Nghệ An) bày tỏ sự đồng tình cao với hai nghị quyết về chủ trương đầu tư Chương trình Mục tiêu quốc gia trong lĩnh vực giáo dục và y tế, vì đây là các chương trình có tác động lớn đến chất lượng dân số và nguồn lực phát triển đất nước.
Đại biểu cho rằng, dự thảo Nghị quyết về Chương trình Mục tiêu quốc gia chăm sóc sức khỏe dân số và phát triển cần được rà soát kỹ để tránh trùng lặp chính sách. Đại biểu dẫn chứng việc chỉ tiêu giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi trẻ em dưới 5 tuổi đến năm 2030 và 2035 đã được quy định trong Quyết định 02/2022 về Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng. Vì vậy, nội dung này cần được điều chỉnh để tránh dàn trải nguồn lực.
Đại biểu nhấn mạnh: mặc dù dự thảo có quy định ưu tiên cho vùng khó khăn, nhưng các mục tiêu cụ thể chưa thể hiện rõ tinh thần này. Từ thực tế tỷ lệ suy dinh dưỡng khác nhau giữa các vùng, đại biểu đề nghị cụ thể hóa mục tiêu theo vùng, giống như cách tiếp cận trong Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng.
Một điểm đáng lưu ý khác là sự thiếu thống nhất về mốc thời gian giữa dự thảo Chương trình Mục tiêu quốc gia và dự thảo Nghị quyết về cơ chế, chính sách đột phá trong lĩnh vực y tế. Dự thảo Chương trình đặt mục tiêu hoàn thành sổ sức khỏe điện tử vào năm 2030, trong khi chính sách đột phá lại yêu cầu hoàn thành từ năm 2026. Đại biểu đề nghị Bộ Y tế rà soát kỹ để tránh tạo ra bất cập trong quá trình triển khai.
Đại biểu cũng nhắc đến cách diễn đạt “và duy trì đến năm 2035” trong một số mục tiêu có thể gây hiểu nhầm rằng việc duy trì kết thúc sau thời điểm này. Đại biểu kiến nghị bổ sung cụm “và những năm tiếp theo” để thể hiện rõ tính bền vững.
ĐBQH Trần Thị Thu Hằng (Lâm Đồng) phát biểu
Đại biểu Trần Thị Thu Hằng (Lâm Đồng) cho biết: Việt Nam hiện thuộc nhóm 30 quốc gia có gánh nặng bệnh lao kháng thuốc và bệnh lao cao nhất thế giới. Dù đạt nhiều thành tựu, công tác phòng chống lao tiếp tục đối mặt với khó khăn lớn về nguồn lực khi kinh phí năm 2023 giảm chỉ còn 25% so với năm 2021 và viện trợ quốc tế dự kiến bị cắt hoàn toàn từ năm 2026. Đại biểu cảnh báo việc thiếu kinh phí có thể khiến tỷ lệ mắc và tử vong do lao tăng trở lại, vì vậy đề nghị Chính phủ và Bộ Y tế sớm có giải pháp duy trì nguồn lực bền vững.
Về y tế cơ sở, đại biểu nhấn mạnh vai trò nền tảng và tuyến đầu của hệ thống này trong chăm sóc sức khỏe nhân dân nhưng cho rằng nhiều năm qua các giải pháp triển khai vẫn chưa giải quyết triệt để bất cập. Đại biểu chỉ rõ nhân lực chất lượng cao chưa được thu hút, cơ sở vật chất còn thiếu đồng bộ và tâm lý người dân chưa thực sự tin tưởng vào khám chữa bệnh tại tuyến cơ sở.
Đại biểu kiến nghị xây dựng chính sách đãi ngộ đặc thù để thu hút nhân lực; nâng cao năng lực chuyên môn thông qua đào tạo, chuyển giao kỹ thuật và luân phiên cán bộ giữa các tuyến; đồng thời hoàn thiện cơ chế đầu tư để khắc phục tình trạng thiếu thốn trang thiết bị và cơ sở vật chất.
Diệp Anh; Ảnh: Phạm Thắng
Nguồn Đại Biểu Nhân Dân : https://daibieunhandan.vn/lam-ro-muc-tieu-tieu-chi-hai-chuong-trinh-muc-tieu-quoc-gia-giai-doan-2026-2035-10397038.html