Luật sư Huỳnh Phan Quốc
*Luật sư Huỳnh Phan Quốc - Văn phòng Luật sư Phong & Partners - Trưởng Chi nhánh Nam Đà Nẵng trả lời:
Theo quy định của pháp luật đất đai trước đây của nước ta, việc Nhà nước cấp đất cho hộ nhưng chỉ ghi tên chủ hộ trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là rất phổ biến. Thời gian qua, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền chưa có sự thống nhất trong việc xác định thành viên hộ sử dụng đất. Việc xác định những người sống chung có quan hệ gì, cùng sử dụng đất từ thời điểm nào, căn cứ vào tài liệu, giấy tờ nào để xác định; áp dụng pháp luật dân sự hay đất đai để xác định… cũng còn rất nhiều khác biệt, lúng túng. Từ đó, việc xác định ai là người có quyền sử dụng đất trong hộ gia đình sử dụng đất là vấn đề khá phức tạp và dễ phát sinh nhiều tranh chấp.
Căn cứ Điều 4 Luật Đất đai năm 2024 quy định về các chủ thể là người sử dụng đất thì hộ gia đình sử dụng đất không còn là chủ thể trong quan hệ đất đai được Luật Đất đai công nhận. Tuy nhiên, để có cơ sở pháp lý giải quyết quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của thành viên hộ đã được Nhà nước giao, công nhận… quyền sử đất trước đây thì tại Khoản 25 Điều 3 Luật Đất đai năm 2024 quy định, giải thích từ ngữ về Hộ gia đình sử dụng đất trước khi Luật này có hiệu lực thi hành như sau: “Hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành.”.
Đồng thời, Khoản 1 Điều 102 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về Tài sản chung của các thành viên hộ gia đình: “Việc xác định tài sản chung của các thành viên hộ gia đình, quyền, nghĩa vụ đối với tài sản này được xác định theo quy định tại Điều 212 của Bộ luật này”; Khoản 1 Điều 212 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Tài sản của các thành viên gia đình cùng sống chung gồm tài sản do các thành viên đóng góp, cùng nhau tạo lập nên và những tài sản khác được xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan”.
Theo các quy định nêu trên thì thành viên hộ có quyền sử dụng đất phải đáp ứng các điều kiện sau đây:
Thứ nhất, thành viên hộ phải là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình.
Theo Điều 3 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định, Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn; thành viên gia đình bao gồm vợ, chồng; cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi, cha dượng, mẹ kế, cha mẹ vợ, cha mẹ chồng; con đẻ, con nuôi, con riêng của vợ hoặc chồng, con dâu, con rể; anh, chị, em cùng cha mẹ, anh, chị, em cùng cha khác mẹ, anh, chị, em cùng mẹ khác cha, anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người cùng cha mẹ hoặc cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha; ông bà nội, ông bà ngoại; cháu nội, cháu ngoại; cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột…
Thứ hai, thành viên hộ phải cùng nhau đóng góp, tạo lập thửa đất.
Việc đóng góp, tạo lập quyền sử dụng đất được thực hiện thông qua các hình thức như: cùng góp vốn để nhận chuyển nhượng; đóng thuế, lệ phí và nghĩa vụ tài chính khác trong quá trình sử dụng đất; cùng tham gia khai hoang, cải tạo trong quá trình sử dụng đất.
Việc xác định các thành viên sử dụng đất có tham gia quá trình khai hoang, cải tạo; đóng góp tiền, tài sản để thực hiện nghĩa vụ tài chính tại thửa đất, nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất thể hiện qua các tài liệu, giấy tờ sau đây: giấy tờ chuyển nhượng do các bên xác lập; biên lai nộp thuế, giấy tờ thể hiện thành viên thực hiện nghĩa vụ tài chính liên quan thửa đất; ý kiến, lời khai của thành viên hợp tác xã, người sinh sống lâu năm tại địa phương…
Thứ ba, thành viên hộ phải đang sống cùng một hộ và sử dụng chung thửa đất tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất.
Căn cứ quy định pháp luật liên quan và thực tiễn giải quyết các trường hợp tương tự, để xác định các thành viên có sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất thì cần thu thập các tài liệu, giấy tờ sau:
-Sổ hộ khẩu và tàng thư sổ hộ khẩu được được khai, đăng ký, cấp từ sau năm 1975 và lưu trữ tại Công an cấp có thẩm quyền.
-Tài liệu, giấy tờ, hồ sơ địa chính trước năm 1980: Bằng khoán điền thổ; Văn tự đoạn mãi bất động sản có chứng nhận của cơ quan thuộc chế độ cũ; Văn tự mua bán nhà ở, tặng cho nhà ở, đổi nhà ở, thừa kế nhà ở mà gắn liền với đất ở có chứng nhận của cơ quan thuộc chế độ cũ; Bản di chúc hoặc giấy thỏa thuận tương phân di sản về nhà ở được cơ quan thuộc chế độ cũ chứng nhận; Giấy phép cho xây cất nhà ở; Giấy phép hợp thức hóa kiến trúc của cơ quan thuộc chế độ cũ cấp; Bản án của Tòa án thuộc chế độ cũ đã có hiệu lực thi hành; Sổ mục kê, sổ kiến điền lập trước ngày 18 tháng 12 năm 1980 mà có tên người sử dụng đất…
-Hồ sơ địa chính được lập theo Chỉ thị 299/TTg ngày 10/11/1980 của Thủ tướng Chính phủ như: Sổ mục kê, Bản đồ địa chính và Sổ đăng ký ruộng đất/Sổ địa chính…
Như vậy, theo thông tin chị Tâm cung cấp, chưa đủ cơ sở để xác định chị Tâm là thành viên của hộ có quyền sử dụng đất chung tại thửa đất mà người dì đứng tên chủ hộ hay không. Chị Tâm cần liên hệ cơ quan, tổ chức có thẩm quyền để thu thập hồ sơ nhân khẩu, hồ sơ địa chính thửa đất… từ thời điểm bắt đầu sử dụng đất, thành lập hộ cho đến nay để có cơ sở xác định chị có phải là thành viên của hộ có quyền sử dụng đất chung hay không. Trường hợp không am hiểu thủ tục, chị Tâm có thể nhờ các đơn vị tư vấn pháp lý chuyên nghiệp để hỗ trợ.
Chuyên mục này có sự hợp tác về chuyên môn của Văn phòng Luật sư Phong & Partners. Đường dây nóng hỗ trợ tư vấn: 0236.3822678 - 0905.102425