Tỉ mỉ từng công đoạn
Làng Chuông, một làng nghề lâu đời ở Hà Nội, có lịch sử làm nón từ bao đời nay, nhưng không ai biết chính xác nghề này bắt đầu từ năm nào. Theo lời kể của các cụ cao niên trong làng, từ thế kỷ thứ 8, làng đã bắt đầu sản xuất nón. Nghệ nhân Lê Văn Tuy (xã Thanh Oai, TP. Hà Nội) chia sẻ: trước đây, làng Chuông còn có tên là Trang Thì Trung và đã nổi tiếng với nghề làm nón, phục vụ nhu cầu của mọi tầng lớp trong xã hội như nón ba tầm, nón nhô, nón long, nón dấu, nón chóp... Nón lá làng Trang Thì Trung - tên gọi cũ của làng nón Chuông nổi tiếng bởi các đặc tính chắc, bền, thanh, đẹp. Kế thừa những tinh hoa từ ông cha để lại, từ bàn tay tinh hoa của người dân làng Chuông đã đưa ra thị trường nhiều sản phẩm nón lá để phục vụ nhu cầu của người dân phục vụ đời sống. Công dụng của nón lá là được sử dụng che nắng, che mưa… và cũng là một phụ kiện làm đẹp của chị em phụ nữ.
Nghệ nhân Lê Văn Tuy thoăn thoắt đan nón. Ảnh: Thanh Bình
Đôi tay thoăn thoắt đan nón, nghệ nhân Lê Văn Tuy (xã Thanh Oai, TP. Hà Nội) chia sẻ các công đoạn làm nón: Để làm ra sản phẩm nón làng Chuông phải lựa chọn kỹ càng thành phẩm sản xuất là lá (gồm lá già và lá non). Chất lượng lá sẽ quyết định giá của thành phẩm. Nón được làm từ lá già sẽ có chất lượng hơn và giá nhỉnh hơn so với lá non, nón làm từ lá càng đẹp thì giá sản phẩm càng cao.
Nghệ nhân Lê Văn Tuy cho biết, lá sẽ được vò trong cát rồi phơi nắng cho đến khi màu xanh của lá chuyển sang màu trắng bạc. Sau đó lá được lót dưới nắm giẻ, dùng lưỡi cày miết nhanh sao cho lá phẳng mà không giòn, không rách. Vòng nón làm bằng cật tre, nứa vót nhỏ và đều khi nối bắt buộc phải tròn và không chắp, không gợn. Nón làng Chuông có 16 lớp vòng giúp nón có độ bền chắc, mềm mại…
Nhằm gia tăng giá trị cũng như đa dạng hóa sản phẩm, người làm nón sẽ trang trí những họa tiết hoa lá hoặc cầu kì hơn do khách hàng đặt mẫu mã. Công đoạn cuối cùng là phải phơi nắng để giúp sản phẩm bền đẹp. Tùy thuộc vào chất lượng và độ phức tạp sản phẩm, giá dao động từ 30.000 đồng đến 2.000.000 đồng/nón. Các mẫu mã mà do người làng Chuông tạo nên hiện đã và đang được thị trường trong nước tìm mua, đặc biệt là du khách nước ngoài mua về làm quà lưu niệm. Bên cạnh đó, nhiều sản phẩm nón lá làng Chuông được công nhận sản phẩm OCOP của TP. Hà Nội. Riêng nghệ nhân Lê Văn Tuy đã có 5 sản phẩm đạt OCOP 4 sao.
Quảng bá làng nghề
Được biết, gia đình nghệ nhân Lê Văn Tuy là một trong những người tiên phong trong sản xuất kết hợp với làm du lịch của địa phương. Đến với tour trải nghiệm làng nghề, nghệ nhân sẽ tận tình giải thích từng công đoạn với khách như để có một chiếc nón đẹp phải kỳ công trong tất cả quá trình thực hiện. Không những vậy, du khách sẽ được trải nghiệm làm ra một sản phẩm nón lá hoàn chỉnh. Trung bình mỗi tháng, gia đình nghệ nhân đón khoảng 10 – 20 đoàn khách, mỗi đoàn 5 - 10 người có khi hàng trăm người. Tâm sự với phóng viên báo Đại biểu Nhân dân, nghệ nhân Lê Văn Tuy cho biết, từ đầu năm đến nay, gia đình đã đón hơn 10.000 du khách trong và ngoài nước.
Nghệ nhân Tạ Thu Hương, Chủ tịch Hội đồng quản trị Hợp tác xã Mây Tre Nón Lá cũng cho biết, các hộ làm nghề nón trong làng Chuông đã và đang tích cực kết nối liên kết với các tour đưa khách về thăm làng và chỉ dẫn khách trải nghiệm quy trình làm nón.
Với giá dịch vụ là 50.000 đồng/khách là giá cả rất hợp lý vừa túi tiền với nhiều người và đã bao gồm cả chi phí nguyên liệu cho du khách tự tay làm các công đoạn của một chiếc nón lá. Hoạt động giúp khách trải nghiệm làng nghề là cơ hội quảng bá nghề truyền thống, vừa giúp người dân có thêm thu nhập. Bên cạnh đó, chính quyền địa phương cũng có nhiều hoạt động hỗ trợ làng nghề trong hoạt động bảo tồn và phát triển. Vào thời điểm khách đến đông, chính quyền địa phương sẵn sàng bố trí lực lượng Đoàn Thanh niên xã, Hội Liên hiệp phụ nữ xã, Công an xã... đón tiếp, bảo đảm an ninh trật tự. Đồng thời, mở các lớp tập huấn cho hộ dân cách thức làm du lịch làng nghề.
Các nghệ nhân làm nón làng Chuông mong muốn nhận được sự quan tâm hơn của các cấp, ngành hỗ trợ hoàn chỉnh hệ thống giao thông, bãi đỗ xe, nhà trưng bày, nhà trình diễn nghề làm nón... nhằm khai thác lợi thế làng nghề gắn phát triển du lịch. Theo nghệ nhân Lê Văn Tuy, trước đây, đa số hộ dân tại làng Chuông ai cũng làm nghề. Đặc biệt các em khi mới 6, 7 tuổi đã được người lớn hướng dẫn khâu và đan nón. Nhưng, hiện còn rất ít người theo nghề và những người còn theo nghề đều cố gắng lưu giữ nghề cổ truyền của ông cha để lại.
Nghệ nhân Tuy chia sẻ, hiện nay xã hội có nhiều việc làm với mức lương hấp dẫn, đồng thời giới trẻ muốn tự do yêu thích nghề khác nên đa số đã rời quê hương để đi làm ăn. Nhưng khi có dịp trở về quê hương, mọi người cũng dành thời gian để hỗ trợ gia đình làm công việc đan nón. Chính vì thế, làng Chuông rất mong muốn có sự hỗ trợ nhiều hơn nữa trong việc bảo tồn phát triển làng nghề. Trong đó có việc kết nối hỗ trợ quảng bá sản phẩm trong và ngoài nước. Đặc biệt quảng bá và bán sản phẩm qua các sàn thương mại điện tử.
Giám đốc Trung tâm Khuyến công và Tư vấn phát triển công nghiệp Hà Nội (Sở Công thương Hà Nội) Hoàng Minh Lâm khẳng định: Làng Chuông là một trong những địa danh làng nghề sản xuất mây tre biết phát huy sản xuất kinh tế cũng như kết nối với tài sản văn hóa. Trong thời gian tới, đơn vị sẽ tiếp tục tham mưu với Sở Công thương hỗ trợ các cơ sở xây dựng thương hiệu, chuẩn hóa quy trình sản xuất và đưa sản phẩm vào các kênh phân phối toàn cầu.
Thanh Bình