Lãnh đạo viện nghiên cứu hiến kế cách sắp xếp các viện trong trường đại học

Lãnh đạo viện nghiên cứu hiến kế cách sắp xếp các viện trong trường đại học
3 giờ trướcBài gốc
Hiện nay, nhiều viện nghiên cứu trong các cơ sở giáo dục đại học còn gặp khó khăn về cơ chế hoạt động, tự chủ tài chính và định hướng phát triển lâu dài. Theo lãnh đạo nhiều viện, nếu được sắp xếp lại hệ thống viện nghiên cứu sẽ giúp tinh gọn đầu mối, giảm áp lực hành chính để viện có điều kiện tập trung hơn cho nghiên cứu chuyên sâu.
Việc Thủ tướng giao Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng đề án rà soát, sắp xếp hệ thống các viện nghiên cứu trong cơ sở giáo dục đại học, hoàn thành trong quý III/2025, được lãnh đạo các viện kỳ vọng sẽ tháo gỡ những vướng mắc còn tồn tại, đồng thời tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững trong thời gian tới. [1]
Là cơ hội để tái cấu trúc toàn diện hệ sinh thái nghiên cứu theo hướng hiện đại, hiệu quả
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Trường Thịnh - Viện trưởng Viện Công nghệ Thông minh và Tương tác,Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh chia sẻ: "Theo tôi, khó khăn lớn nhất của viện nghiên cứu trong các cơ sở giáo dục đại học là bài toán cân bằng giữa nhiệm vụ đào tạo và triển khai nghiên cứu khoa học có tính đột phá, ứng dụng cao trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ".
Theo đó, thầy Thịnh chỉ ra, một mặt, giảng viên và nhà nghiên cứu phải đảm nhiệm khối lượng giảng dạy lớn nhằm đảm bảo chất lượng đào tạo nguồn nhân lực. Mặt khác, họ phải thực hiện đề tài nghiên cứu, đòi hỏi chiều sâu, sự đầu tư thời gian, tài chính và hệ sinh thái hỗ trợ. Điều này dẫn đến tình trạng quá tải, ảnh hưởng đến cả hai chức năng cốt lõi của viện.
Ngoài ra, quy trình phê duyệt đề tài, mua sắm thiết bị nghiên cứu, huy động nguồn lực xã hội hóa còn khá cứng nhắc, gây cản trở cho việc triển khai chương trình nghiên cứu quy mô lớn, liên ngành.
Chưa kể, việc thu hút và giữ chân nguồn nhân lực chất lượng cao cũng là thách thức không nhỏ. Các chính sách đãi ngộ trong môi trường đại học còn kém cạnh tranh so với khu vực doanh nghiệp về công nghệ.
Đặc biệt, hiện nay, vướng mắc tài chính ảnh hưởng đến hoạt động nghiên cứu của viện không chỉ nằm ở mức đầu tư mà còn ở cơ chế sử dụng và huy động nguồn lực tài chính. Kinh phí nghiên cứu thường bị chia nhỏ, dàn trải, khiến những đề tài có hàm lượng công nghệ cao, cần đầu tư chiều sâu khó tiếp cận được nguồn lực tương xứng. Việc này làm suy giảm khả năng phát triển chương trình nghiên cứu dài hạn, có tầm ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế và xã hội.
Rồi chính sách khoán chi, tự chủ tài chính trong nghiên cứu bị ràng buộc bởi nhiều thủ tục hành chính. Quy định về mua sắm trang thiết bị, thuê chuyên gia quốc tế, hợp tác doanh nghiệp còn nhiều vướng mắc khiến tiến độ nghiên cứu bị chậm trễ, thậm chí phải điều chỉnh hoặc hủy bỏ vì không kịp giải ngân trong khung thời gian quy định.
Cộng thêm khả năng huy động nguồn lực xã hội hóa từ khu vực doanh nghiệp chưa phát huy hiệu quả do thiếu cơ chế khuyến khích đầu tư tư nhân vào nghiên cứu như bảo hộ sở hữu trí tuệ, chia sẻ lợi ích từ kết quả nghiên cứu. Điều này khiến viện nghiên cứu khó xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo mang tính thị trường, dẫn đến sự lệ thuộc lớn vào nguồn ngân sách nhà nước.
"Vì vậy, rà soát, sắp xếp hệ thống viện nghiên cứu trong trường đại học là bước đi cần thiết và kịp thời, nhằm kiến tạo hành lang pháp lý và cơ chế vận hành thông thoáng hơn. Đây là điều kiện giúp các viện phát triển đúng vai trò, trở thành trung tâm kết nối giữa tri thức hàn lâm và ứng dụng công nghệ vào thực tiễn, đồng hành cùng doanh nghiệp cũng như phục vụ hiệu quả cho chiến lược chuyển đổi số quốc gia", Viện trưởng Viện Công nghệ Thông minh và Tương tác, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh nhận định.
Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Trường Thịnh - Viện trưởng Viện Công nghệ Thông minh và Tương tác, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: NVCC.
Theo thầy Thịnh, việc rà soát, sắp xếp hệ thống viện nghiên cứu trong trường đại học có ý nghĩa chiến lược trong bối cảnh nước ta đang đẩy mạnh phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Đây là cơ hội để tái cấu trúc toàn diện hệ sinh thái nghiên cứu theo hướng hiện đại, hiệu quả và gắn kết chặt chẽ với yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới.
Trước hết, việc rà soát sẽ giúp nhận diện rõ thực trạng hoạt động, năng lực và chức năng của từng viện nghiên cứu, làm cơ sở để sắp xếp lại theo hướng chuyên sâu, liên ngành hoặc tích hợp với chương trình đào tạo mũi nhọn. Từ đó, giảm thiểu sự trùng lặp, manh mún trong đầu tư, tạo điều kiện để các viện tập trung nguồn lực cho lĩnh vực có tiềm năng ứng dụng cao.
Việc này còn mở đường cho đổi mới cơ chế quản trị về tài chính, nhân sự, hợp tác trong và ngoài trường đại học. Viện có thể linh hoạt hơn trong xây dựng chiến lược nghiên cứu dài hạn, chủ động kết nối doanh nghiệp và các tổ chức quốc tế nhằm nâng cao khả năng thu hút nguồn lực xã hội hóa, đẩy mạnh chuyển giao công nghệ cũng như thương mại hóa kết quả nghiên cứu.
Và khi viện nghiên cứu được tái cấu trúc phù hợp, sự gắn kết giữa hoạt động nghiên cứu và chương trình đào tạo sẽ trở nên rõ ràng và hiệu quả hơn. Sinh viên, học viên sau đại học sẽ có cơ hội được tham gia vào đề tài nghiên cứu thực tiễn, từ đó hình thành nguồn nhân lực chất lượng cao.
Cùng bàn về vấn đề này, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Trường - Viện trưởng Viện Sinh học và Công nghệ Nông nghiệp, Học viện Nông nghiệp Việt Nam cho biết: “Khó khăn của viện nghiên cứu là thiếu hụt kinh phí cho hoạt động chi thường xuyên như chi trả lương, duy trì vận hành. Trong bối cảnh thực hiện cơ chế tự chủ, viện nghiên cứu chỉ được giao quyền sử dụng đất hoặc cơ sở vật chất có sẵn, phần lớn các khoản chi khác viện phải tự cân đối. Một số hoạt động như xây dựng, sửa chữa, tổ chức vận hành đều do viện tự bảo đảm kinh phí và triển khai. Điều này làm gia tăng áp lực tài chính, đặc biệt đối với các khoản chi cho đội ngũ nhân sự và hoạt động thường xuyên.
Do đó, việc cân bằng giữa nhiệm vụ đào tạo và triển khai nghiên cứu khoa học cũng còn nhiều khó khăn. Việc phân bổ thời gian giữa giảng dạy và nghiên cứu tạo thêm áp lực cho đội ngũ cán bộ của viện khi vừa phải đảm bảo chất lượng đào tạo, vừa phải duy trì hoạt động nghiên cứu khoa học”.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Trường - Viện trưởng Viện Sinh học và Công nghệ Nông nghiệp, Học viện Nông nghiệp Việt Nam. Ảnh: website nhà trường.
Đồng quan điểm, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Mạnh Hùng - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Khoa học Ngân hàng, Học viện Ngân hàng chia sẻ: "Mô hình viện nghiên cứu trong trường đại học vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn. Vì vậy, việc rà soát, sắp xếp hệ thống các viện là cơ hội để phân bổ lại nguồn lực một cách hợp lý, củng cố các trung tâm nghiên cứu trọng điểm, tăng tính liên kết giữa các viện và cơ sở đào tạo, qua đó nâng cao hiệu quả hoạt động nghiên cứu và đổi mới sáng tạo.
Việc này còn giúp viện tập trung nguồn lực và nhân lực chất lượng cao, giảm trùng lặp, chồng chéo; thúc đẩy sự hợp tác liên ngành, liên viện, từ đó nâng cao chất lượng đào tạo dựa trên kết quả nghiên cứu thực tiễn, có tính khả thi và ứng dụng cao hơn. Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động nguồn lực xã hội và quốc tế, nâng cao uy tín cũng như năng lực cạnh tranh của viện trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng".
Sắp xếp viện nghiên cứu cần phù hợp với đặc thù của từng đơn vị
Việc rà soát, sắp xếp lại hệ thống viện nghiên cứu trong các cơ sở giáo dục đại học là cần thiết, tuy nhiên cần thực hiện một cách linh hoạt, phù hợp với đặc điểm từng đơn vị.
Về vấn đề này, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Khoa học Ngân hàng, Học viện Ngân hàng cho rằng, sắp xếp các viện nghiên cứu cần:
Thứ nhất, dựa trên mức độ phù hợp với chiến lược phát triển của nhà trường và ngành nghề đào tạo. Viện nghiên cứu cần tập trung vào lĩnh vực trọng tâm, có thế mạnh, gắn chặt với ngành nghề đào tạo để nâng cao chất lượng trong cả giảng dạy lẫn nghiên cứu.
Thứ hai, dựa vào năng lực nghiên cứu và đào tạo, trong đó cần đánh giá được năng lực của đội ngũ cán bộ nghiên cứu; số lượng, chất lượng công trình khoa học; đề tài nghiên cứu khoa học các cấp và khả năng hướng dẫn sinh viên, học viên thực hiện đề tài, dự án nghiên cứu.
Thứ ba, cần xem xét tính ứng dụng và chuyển giao công nghệ như khả năng đưa kết quả nghiên cứu vào thực tiễn, hợp tác với doanh nghiệp, tổ chức xã hội trong chuyển giao công nghệ và giải quyết các vấn đề liên quan.
Thứ tư, cần tính đến khả năng thu hút và phát triển nhân tài. Cơ sở giáo dục đại học nên thiết lập các tiêu chí về việc xây dựng môi trường làm việc hấp dẫn, chính sách đãi ngộ và phát triển nghề nghiệp để giữ chân giảng viên, nhà khoa học.
Cuối cùng, cần dựa vào khả năng hợp tác và kết nối quốc tế, trong đó chú trọng mức độ tham gia mạng lưới nghiên cứu quốc tế, khả năng huy động nguồn vốn, số lượng dự án, bài báo khoa học quốc tế và khả năng kết nối học thuật với tổ chức nghiên cứu nước ngoài.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Mạnh Hùng - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Khoa học Ngân hàng, Học viện Ngân hàng. Ảnh: NVCC.
Còn Viện trưởng Viện Sinh học và Công nghệ Nông nghiệp, Học viện Nông nghiệp Việt Nam cho rằng, đối với những đơn vị đã tự chủ, không nên sắp xếp máy móc theo hướng “gộp chung” chỉ để giảm đầu mối. Bởi các đơn vị này thường đã chủ động tinh gọn bộ máy để vận hành hiệu quả trong điều kiện kinh phí hạn hẹp.
Việc sắp xếp cơ học có thể không mang lại hiệu quả mà làm gia tăng gánh nặng hành chính, thủ tục. Do đó, cần rà soát, sắp xếp những đơn vị còn sử dụng ngân sách nhà nước nhằm giảm áp lực ngân sách, đồng thời nâng cao năng lực tự chủ, từng bước chuyển đổi sang cơ chế vận hành hiệu quả hơn.
Bên cạnh đó, việc sắp xếp cũng cần dựa trên đặc thù hoạt động của từng đơn vị. Trong trường đại học, viện và trung tâm nghiên cứu thường được hình thành từ hướng nghiên cứu chính của giảng viên. Khi một nhóm nghiên cứu phát triển đủ mạnh, họ sẽ thành lập đơn vị riêng để tổ chức hoạt động nghiên cứu chuyên sâu, dẫn đến số lượng viện, trung tâm đôi khi khá nhiều. Vì vậy, khi tiến hành sắp xếp nên ưu tiên gộp các đơn vị có chức năng, nhiệm vụ tương đồng để tái tổ chức bộ máy hợp lý hơn.
"Để các viện nghiên cứu trong trường đại học hoạt động hiệu quả, cần có thêm nguồn đầu tư để duy trì và phát triển lâu dài. Khi nguồn tài chính ổn định và được đầu tư đúng mức, hiệu quả của hoạt động nghiên cứu chuyên sâu sẽ được nâng cao. Bên cạnh đó, việc đánh giá kết quả nghiên cứu cần đặt trong mối tương quan với mức độ đầu tư, thay vì chỉ xét đến sản phẩm cuối cùng trong khi nguồn lực đầu vào còn hạn chế.
Khi đã trao quyền tự chủ cho viện nghiên cứu, cần đi kèm với cơ chế đảm bảo tính độc lập, nhất là trong quản lý và phân bổ tài chính. Ví dụ, hiện nay viện nghiên cứu thường chủ động tham gia đấu thầu hoặc hợp tác với đối tác bên ngoài để thực hiện các đề tài, dự án. Phần kinh phí thu được từ hoạt động này nên được trao quyền quản lý trực tiếp cho viện nghiên cứu, nhằm tăng tính linh hoạt và hiệu quả trong triển khai.
Trên thực tế, khi thực hiện đề tài cấp Bộ/ngành, nhà trường vẫn yêu cầu viện phải chuyển kinh phí qua trường để quyết toán. Điều này khiến quy trình giải ngân trở nên phức tạp do vướng nhiều thủ tục hành chính rườm rà, mất thời gian. Do đó, thay vì kiểm soát kinh phí theo cách chặt chẽ và cứng nhắc, việc giám sát nên tập trung vào các tiêu chí và chỉ tiêu đầu ra cụ thể để đảm bảo hiệu quả công việc", Viện trưởng Viện Sinh học và Công nghệ Nông nghiệp, Học viện Nông nghiệp Việt Nam nhấn mạnh.
Sinh viên Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh đang nghiên cứu chế tạo máy bán trà trái cây tự động. Ảnh: website nhà trường.
Bên cạnh việc rà soát, sắp xếp hệ thống tổ chức viện nghiên cứu, Viện trưởng Viện Công nghệ Thông minh và Tương tác, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng, để nâng cao hiệu quả nghiên cứu và đào tạo của các viện, cần có những đổi mới mạnh mẽ về cơ chế và chính sách.
Trước hết, cần trao quyền tự chủ thực chất cho các viện về tài chính, nhân sự và hợp tác quốc tế với cơ chế giám sát linh hoạt, minh bạch. Viện phải được phép chủ động xây dựng chiến lược phát triển dài hạn, lựa chọn hướng nghiên cứu mũi nhọn và đối tác chiến lược phù hợp với năng lực và thế mạnh riêng.
Cần thiết lập quỹ nghiên cứu đặc thù, có cơ chế xét chọn minh bạch, ưu tiên đề tài liên ngành, ứng dụng cao và gắn với doanh nghiệp. Việc khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nghiên cứu thông qua ưu đãi thuế, chia sẻ lợi ích từ kết quả nghiên cứu sẽ giúp hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo theo hướng thị trường.
Cần đẩy mạnh kết nối quốc tế và trao đổi học thuật toàn cầu, giúp viện tiếp cận với tri thức tiên tiến, đồng thời nâng cao năng lực cho đội ngũ nhà khoa học.
Và chính sách phát triển nguồn nhân lực nghiên cứu cần được chú trọng hơn nữa, trong đó nên tạo điều kiện cho giảng viên trẻ, nhà khoa học trẻ tham gia nghiên cứu chuyên sâu.
Nếu thực hiện đồng bộ các giải pháp này, hệ thống viện nghiên cứu trong trường đại học sẽ không chỉ là nơi đào tạo nhân lực, mà còn là hạt nhân thúc đẩy phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo và đóng góp trực tiếp vào quá trình chuyển đổi số quốc gia.
Tài liệu tham khảo:
[1] https://baochinhphu.vn/thu-tuong-chu-tri-phien-hop-bcd-cua-chinh-phu-ve-phat-trien-khoa-hoc-cong-nghe-doi-moi-sang-tao-chuyen-doi-so-va-de-an-06-102250721091025487.htm
Khánh Hòa
Nguồn Giáo Dục VN : https://giaoduc.net.vn/lanh-dao-vien-nghien-cuu-hien-ke-cach-sap-xep-cac-vien-trong-truong-dai-hoc-post253431.gd