Lao động Việt Nam trước ngã rẽ 'xanh'

Lao động Việt Nam trước ngã rẽ 'xanh'
4 giờ trướcBài gốc
TS. Nguyễn Hoàng Hà - Chuyên gia luật lao động của Văn phòng Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) tại Việt Nam Các quan điểm trong bài viết là của cá nhân của tác giả, không nhất thiết phản ánh quan điểm chính thức của ILO.
Đòi hỏi cấp thiết
Việt Nam đang trải qua quá trình chuyển đổi vừa tham vọng, vừa cấp thiết. Cam kết đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 không chỉ là một tuyên bố chính sách, mà còn là tầm nhìn cho một tương lai sạch hơn, công bằng hơn và có khả năng chống chịu kinh tế tốt hơn. Tuy nhiên, khi các tấm pin năng lượng mặt trời mọc lên khắp các vùng nông thôn và xe buýt điện lăn bánh trên đường phố, một câu hỏi quan trọng được đặt ra: Lực lượng lao động Việt Nam đã sẵn sàng cho sự chuyển đổi này hay chưa?
Vấn đề không chỉ nằm ở yếu tố “xanh”, mà còn ở tri thức và kỹ năng của những người đứng sau các công nghệ đó. Con đường hướng tới phát triển bền vững của Việt Nam gắn liền với việc tăng năng suất lao động một cách đáng kể, đồng thời thúc đẩy tính bao trùm thông qua tạo việc làm trong tăng trưởng xanh. Bài viết này xem xét cách Việt Nam có thể đối mặt với thách thức kép này, dựa trên những ví dụ thực tế và bài học chính sách để đưa ra một hướng đi phù hợp.
Lộ trình đạt phát thải ròng bằng “0” của Việt Nam không chỉ là câu chuyện về lượng khí thải, mà cốt lõi là con người.
Việt Nam đã đạt được mức tăng trưởng ấn tượng. Trong nửa đầu năm 2025, nền kinh tế tăng trưởng 7,52%, tốc độ nhanh nhất trong hơn một thập kỷ. Các hoạt động sản xuất và xây dựng được thúc đẩy bởi dòng vốn đầu tư mạnh mẽ trong nước và nước ngoài. Tuy nhiên, đằng sau những con số ấn tượng ấy là một thực tế đáng lo ngại: năng suất lao động vẫn ở mức rất thấp.
Theo Ngân hàng Thế giới (2025), năng suất lao động của Việt Nam thấp hơn Thái Lan 1,68 lần, thấp hơn Malaysia 1,89 lần và thấp hơn Singapore hơn 5 lần. Có nhiều nguyên nhân phức tạp dẫn đến điều này.
Số liệu thống kê sơ bộ cho thấy, đến quý I/2025, phần lớn lực lượng lao động (63,9%) tại Việt Nam làm việc trong khu vực phi chính thức, nhiều người không được tiếp cận đào tạo hay bảo trợ xã hội. Chỉ 28,8% người lao động có bằng cấp chính quy và phần lớn thiếu kỹ năng kỹ thuật, số hóa mà nền kinh tế hiện đại đòi hỏi. Sự chênh lệch còn rõ rệt hơn ở các vùng nông thôn.
Ngay cả khi các đô thị như TP.HCM và Hà Nội thu hút đầu tư và nhân lực, những nơi vùng sâu, vùng xa vẫn đối mặt với hạ tầng yếu kém và khả năng tiếp cận giáo dục hạn chế. Doanh nghiệp nhỏ và vừa - chiếm hơn 90% số lượng doanh nghiệp tại Việt Nam - lại ít có điều kiện tiếp cận công nghệ tự động hóa hay kỹ thuật số.
Chương trình học phổ thông nên tích hợp các mô-đun xanh như kiến thức về phát triển bền vững, biến đổi khí hậu và công nghệ xanh
Biểu tượng về sự chuyển mình
Từng là một vùng nông nghiệp yên ả, tỉnh Bắc Ninh ngày nay trở thành biểu tượng của sự chuyển mình công nghiệp. Khi các tập đoàn đa quốc gia như Samsung đặt chân đến, chính quyền địa phương đã đổ nguồn lực vào đào tạo nghề và xây dựng hạ tầng. Người lao động được học lắp ráp điện tử, kiểm soát chất lượng và logistics. Bắc Ninh hiện thuộc nhóm địa phương có năng suất lao động cao nhất cả nước và trở thành hình mẫu cho các địa phương khác.
Câu chuyện của Bắc Ninh nhấn mạnh rằng, năng suất không chỉ là máy móc hay chỉ số, mà chính là vấn đề con người. Khi người lao động được trang bị kỹ năng và cơ hội, họ có thể thúc đẩy đổi mới và tăng trưởng.
Để nhân rộng thành công của Bắc Ninh ra toàn quốc, Việt Nam cần tiếp cận theo nhiều hướng sau:
Thứ nhất, mở rộng đào tạo nghề, đặc biệt trong các lĩnh vực số, kỹ thuật và kinh tế xanh. Trung tâm Đào tạo nghề Việt - Đức tại TP.HCM là ví dụ điển hình khi kết hợp giữa lý thuyết và thực hành trong các lĩnh vực như năng lượng tái tạo và cơ điện tử.
Thứ hai, thúc đẩy chính thức hóa khu vực phi chính thức. Tại TP. Đà Nẵng, một chương trình địa phương đã giúp các tiểu thương đường phố đăng ký kinh doanh, tiếp cận vốn vay vi mô và tham gia đào tạo - từ đó năng suất và thu nhập tăng đáng kể.
Thứ ba, tiến hành chẩn đoán nhu cầu việc làm và kỹ năng trong các ngành mới nổi, xác định các giải pháp sáng tạo phù hợp với nhu cầu việc làm của thanh niên. Đây là một phần trong Chương trình Đối tác ILO - Hàn Quốc, nhằm thúc đẩy việc làm bền vững, đặc biệt với nhóm thanh niên không đi học, không có việc làm và không tham gia đào tạo (nhóm NEET) và các công việc xanh.
Thứ tư, thúc đẩy tăng trưởng của doanh nghiệp nhỏ và vừa thông qua các trung tâm đổi mới sáng tạo như Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia (NIC), nơi cung cấp hỗ trợ tài chính và tư vấn cho các doanh nghiệp nhỏ tiếp cận AI, tự động hóa và công nghệ sạch.
Thứ năm, tăng đầu tư vào các khu vực còn tụt hậu. Tại tỉnh Sóc Trăng cũ (nay là TP. Cần Thơ), các hợp tác xã nông nghiệp đã bắt đầu sử dụng drone và phân tích dữ liệu để tăng năng suất, chứng minh rằng, ngành nông nghiệp truyền thống cũng có thể áp dụng công nghệ mới.
Thứ sáu, tại TP. Huế, Dự án “Thành phố học tập” được UNESCO hỗ trợ đã thiết lập các trung tâm cộng đồng, nơi người dân mọi thế hệ tham gia học tập về kỹ năng số, khởi nghiệp và nhận thức khí hậu.
Khoảng cách trong việc làm xanh
Nếu năng suất là một mặt của đồng xu, thì việc làm xanh là mặt còn lại. Kinh tế xanh ở Việt Nam đang mở rộng, nhưng lực lượng lao động vẫn chưa có đủ kỹ năng và kiến thức cần thiết. Đến năm 2025, việc làm xanh chỉ chiếm 3,6% tổng việc làm. Các lĩnh vực như năng lượng tái tạo và giao thông xanh đang phát triển, nhưng vẫn chủ yếu do nam giới lớn tuổi nắm giữ.
Trong khi đó, thanh niên và phụ nữ - hai nhóm lẽ ra nên đóng vai trò trung tâm trong quá trình chuyển đổi xanh - thường bị bỏ qua. Tỷ lệ thất nghiệp ở thanh niên là 7,93%, gần gấp bốn lần trung bình của đất nước. Hơn 1,35 triệu thanh niên thuộc nhóm NEET đang đối mặt nguy cơ bị gạt ra bên lề xã hội. Nguyên nhân mang tính hệ thống là kỹ năng xanh chưa được tích hợp vào chương trình giáo dục quốc gia, định hướng nghề nghiệp còn mỏng và phần lớn công việc xanh tập trung ở thành thị - xa nơi phần lớn thanh niên sinh sống.
Cho dù vậy, tiềm năng là rất lớn. Theo Ngân hàng Thế giới, hơn 40% việc làm ở Việt Nam có thể trở thành việc làm xanh nếu được hỗ trợ phù hợp. Giao thông, xây dựng và nông nghiệp là các ngành đặc biệt tiềm năng. Tại tỉnh Bình Thuận cũ (nay thuộc Lâm Đồng), nơi có bức xạ mặt trời mạnh, các doanh nghiệp năng lượng mặt trời đã phối hợp với trường nghề địa phương để đào tạo kỹ thuật viên lắp đặt và bảo trì tấm pin. Hàng trăm việc làm được tạo ra và mô hình này đang được nhân rộng tại nhiều địa phương khác.
Trong nông nghiệp, Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) đang hỗ trợ nông dân áp dụng các thực hành thích ứng với biến đổi khí hậu.
Để tăng trưởng xanh mang lại lợi ích cho tất cả mọi người, Việt Nam cần có chính sách bao trùm: các chương trình thí điểm của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc tại Quảng Nam cũ (nay là TP. Đà Nẵng) đã tạo điều kiện cho thanh niên tham gia thực tập trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, từ đó mở ra cơ hội việc làm trong các ngành mới nổi.
Chương trình học phổ thông nên tích hợp các mô-đun xanh như kiến thức về phát triển bền vững, biến đổi khí hậu và công nghệ xanh. Các đối tác công - tư có thể tăng tốc đào tạo và tạo việc làm. Một sáng kiến triển vọng là Trường Đào tạo Kỹ năng Xanh của Schneider Electric, phối hợp cùng các trường đại học địa phương triển khai.
Điều cần thiết hiện nay là cần phải xây dựng khung chuyển đổi công bằng để hỗ trợ người lao động bị ảnh hưởng bởi các chính sách khí hậu hoặc tự động hóa, bao gồm tái đào tạo, đảm bảo thu nhập và hỗ trợ tìm việc.
Chuyển đổi dựa trên con người
Lộ trình đạt phát thải ròng bằng “0” của Việt Nam không chỉ là câu chuyện về lượng khí thải, mà cốt lõi là con người. Đất nước đang đứng trước một ngã rẽ và những quyết định được đưa ra hôm nay sẽ định hình tương lai của hàng triệu người dân trong ngày mai.
Bằng cách kết nối giữa việc làm xanh và năng suất lao động trong cùng một cuộc thảo luận, Việt Nam có thể xây dựng một lực lượng lao động hiệu quả, bao trùm và sẵn sàng cho tương lai. Những câu chuyện thành công từ Bắc Ninh, Bình Thuận và Đà Nẵng cho thấy, điều đó là hoàn toàn khả thi. Thông qua các khoản đầu tư thông minh vào kỹ năng, đổi mới sáng tạo và công bằng, Việt Nam có thể hiện thực hóa khát vọng này theo hướng lấy con người làm trung tâm - nơi tăng trưởng là bền vững và không ai bị bỏ lại phía sau.n
(*) Chuyên gia luật lao động của Văn phòng Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) tại Việt Nam Các quan điểm trong bài viết là của cá nhân của tác giả, không nhất thiết phản ánh quan điểm chính thức của ILO.
TS. Nguyễn Hoàng Hà (*)
Nguồn Đầu Tư : https://baodautu.vn/lao-dong-viet-nam-truoc-nga-re-xanh-d468115.html