Ngày 2/9/1945, Quảng trường Ba Đình chật kín hàng chục vạn người dân. Nắng thu vàng trải nhẹ, bầu trời Hà Nội trong xanh đến lạ. Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh bước lên lễ đài bằng gỗ giản dị, cả biển người bỗng lặng im, như nín thở trước giây phút lịch sử.
Từ trên lễ đài ấy, giọng Người vang lên, ấm trầm mà dõng dạc, ngân xa từng lời bất hủ của Bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Ít ai biết, lễ đài lịch sử này chỉ được dựng gấp rút trong một đêm, tồn tại chưa đầy 24 giờ, bằng gỗ, vải và đinh mượn của nhân dân, rồi tháo dỡ ngay sau buổi lễ. Một công trình tồn tại ngắn ngủi, nhưng ánh sáng thiêng liêng từ nơi ấy thì trường tồn mãi cùng dân tộc.
Lễ đài Độc lập do KTS Ngô Huy Quỳnh thiết kế.
Nhiệm vụ khẩn cấp
Họa sĩ Ngô Thành Nhân - con trai cố kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh - chia sẻ: “Cha tôi kể: ngày 30/8, ông vừa từ Nam Định trở về sau khi tham gia cướp chính quyền. Khi đó, ông Phạm Văn Khoa - sau này là đạo diễn, nghệ sĩ nhân dân - đến nhà tôi ở số 22 Quang Trung.
Ông nói rõ: Việt Minh giao cho cha tôi nhiệm vụ thiết kế lễ đài để Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập. Yêu cầu đặt ra: phải trang nghiêm, đủ sức chịu tải cho 30 người đứng trên, trong đó có Bác, và phải hoàn thành chỉ trong một ngày”.
Một kiến trúc sư trẻ, mới 25 tuổi, nhận trọng trách lịch sử. Không có nhiều thời gian để đắn đo, Ngô Huy Quỳnh bắt tay ngay vào việc.
“Ngay trưa 1/9, ông đã đưa bản phác thảo đầu tiên. Đó là một bục gỗ cao hình vuông, mỗi cạnh 5 mét, phủ vải đỏ sẫm. Trước lễ đài có hai lư hương, giữa là cột cờ cao vút. Tất cả đều rất giản dị nhưng chắc chắn. Ông Nguyễn Hữu Đang - Trưởng ban Tổ chức Quốc khánh - cầm bản vẽ trình lên Bác Hồ. Bác xem rồi gật đầu đồng ý ngay” - Ông Nhân kể.
Vấn đề không chỉ là hình thức, mà là kết cấu. “Cha tôi luôn nhắc: quan trọng nhất là bảo đảm an toàn tuyệt đối. Bởi trên lễ đài hôm ấy có Bác và cả Chính phủ lâm thời. Không thể để xảy ra bất kỳ sơ suất nào”.
Họa sĩ Ngô Thành Nhân.
Một đêm trắng lịch sử
Khi bản vẽ được thông qua, cả Hà Nội vào cuộc. Từ gỗ, vải, đinh, đến thợ thủ công đều được huy động trong vài giờ.
“Cha tôi kể, lúc đó nhóm xây dựng phải đi mượn từng tấm ván, từng cuộn vải. Người dân sẵn sàng cho mượn mà không đòi hỏi bất cứ thù lao nào. Họ coi đó là vinh dự được góp một phần cho cách mạng. Có những xe tải cũ của Pháp còn sơn chữ VH (Ville de Hanoi - Thành phố Hà Nội) được đưa đến để chở vật liệu. Cha tôi đùa với nhà văn Nguyễn Huy Tưởng: VH cũng là Văn hóa, hợp quá!”.
Đêm 1/9/1945, Quảng trường Ba Đình sáng đèn dầu. Tiếng búa, tiếng cưa đục vang lên dồn dập. Trí thức, nghệ sĩ, công nhân, thanh niên cùng làm việc suốt đêm.
Có một chi tiết ít ai biết. “Cha tôi cho đóng một chiếc cọc bằng thép - vốn là răng bừa của đồng bào Mường - vào chính giữa nền lễ đài. Đó là để gia cố kết cấu, nhưng cũng mang ý nghĩa tâm linh, như một điểm tựa của dân tộc” - Họa sĩ Ngô Thành Nhân kể.
Rạng sáng 2/9, lễ đài đã cơ bản hoàn thành.
Giờ phút lịch sử
Đúng 14 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh bước lên lễ đài. Người mặc bộ kaki giản dị. Trước mắt Người là hàng chục vạn người háo hức, ken chật cả Quảng trường Ba Đình.
“Cha tôi đứng dưới, lặng người khi nghe Bác cất giọng: Hỡi đồng bào cả nước… Cả Quảng trường lặng im, rồi bùng nổ trong tiếng hô: Độc lập! Độc lập! Ông nói, chưa bao giờ thấy tinh thần dân tộc hừng hực đến thế” - Ông Nhân xúc động.
Bản Tuyên ngôn Độc lập được đọc từ một lễ đài giản dị, nhưng đó là nơi khai sinh một quốc gia mới.
Điều đặc biệt: ngay sau buổi lễ, lễ đài được tháo dỡ.“Cha tôi bảo, tất cả gỗ, vải đều được trả lại cho dân. Người dân vui lắm, vì thấy tài sản của mình được trân trọng, không bị lãng phí. Ông luôn coi đó là nguyên tắc: mượn của dân phải trả cho dân” - Ông Nhân kể.
Một công trình tồn tại chưa đầy một ngày, nhưng đã vĩnh viễn đi vào lịch sử của dân tộc Việt Nam.
Sau lễ đài Độc lập, kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh tiếp tục để lại nhiều dấu ấn trong kiến trúc Việt Nam. Ông tham gia quy hoạch thủ đô Hà Nội, thiết kế khu tập thể Kim Liên, góp ý cho phương án Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh.
“Cha tôi từ chối nhiều lời mời làm việc ở nước ngoài với mức lương rất cao. Ông bảo: kiến trúc phải bắt rễ từ văn hóa dân tộc, phải phục vụ đất nước. Vì thế, ông ở lại, dành cả đời nghiên cứu, viết sách, để lại công trình như: Lịch sử kiến trúc Việt Nam - cuốn sách gối đầu giường của bao thế hệ sinh viên” - Họa sĩ Ngô Thành Nhân chia sẻ.
Chân dung tự họa của KTS Ngô Huy Quỳnh
Di sản tiếp nối
Gia đình kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh vẫn gìn giữ những kỷ vật quý giá: bản vẽ lễ đài, những ghi chép, tranh ký họa. Ông Nhân chỉ: “Đây là bản thiết kế lễ đài Độc lập mà cha tôi vẽ cách đây 80 năm. Chúng tôi coi đó là bảo vật của gia đình. Cha tôi không chỉ để lại công trình, mà để lại tinh thần yêu nước, lòng trung thành với dân tộc”.
Ông Nhân cho biết, gia đình có ba thế hệ làm kiến trúc. “Anh em chúng tôi, rồi các cháu, nhiều người nối nghiệp cha làm kiến trúc sư. Đó là sự tiếp nối tự nhiên của một truyền thống”.
Ngày nay, cái tên Ngô Huy Quỳnh được đặt cho một con đường ở Hà Nội, cũng như một vườn hoa tại Long Biên. “Đó là sự ghi nhận của xã hội đối với cha tôi, và là niềm tự hào của gia đình”.
Khi được hỏi về thông điệp cha ông để lại, họa sĩ Ngô Thành Nhân lắng lại: “Cha tôi khi mới 25 tuổi đã làm nên một công trình bất tử. Ông từng nói: Phải biết giữ gìn và phát huy kiến trúc dân gian, phải tìm cái đẹp từ chính dân tộc mình. Tôi chỉ mong thế hệ trẻ hôm nay cũng giữ được tinh thần dấn thân, sáng tạo và yêu nước như thế”.
Từ một lễ đài dựng gấp trong đêm bằng gỗ, vải và những chiếc đinh mượn của dân, cả một dân tộc đã bước sang kỷ nguyên độc lập. Công trình chỉ tồn tại chưa đầy một ngày, nhưng ánh sáng từ nơi ấy vẫn tỏa rạng suốt tám thập kỷ qua. Nó nhắc nhở chúng ta rằng: giá trị không nằm ở sự bền vững của vật chất, mà ở tinh thần cống hiến và khát vọng dựng xây tương lai.
Với thế hệ hôm nay, câu chuyện lễ đài Độc lập không chỉ là một ký ức hào hùng, mà còn là lời nhắn gửi: Hãy biết sống giản dị mà kiêu hãnh, dấn thân mà bền bỉ, để mỗi người cũng trở thành “lễ đài” của thời đại mình - nâng đỡ và truyền đi ngọn lửa yêu nước, sáng tạo và nhân ái.
Hồng Thắm