Thầy Nguyễn Thiện Thuật vẫn miệt mài đọc sách mỗi ngày.
Hành trình lên Tây Bắc theo tiếng gọi Bác Hồ
Năm 1957, chàng thanh niên Nguyễn Thiện Thuật (Sn 1939), con liệt sĩ, vừa tốt nghiệp Sư phạm Cầu Giấy (nay là Đại học Sư phạm Hà Nội) và đang dạy ở Trường Nguyễn Công Trứ, Hà Nội. Khi phong trào đưa giáo viên miền xuôi lên Tây Bắc lan rộng, ông đã xung phong. “Đến cả con gái, em vợ Bộ trưởng Bộ Giáo dục Nguyễn Văn Huyên còn phải lên Tây Bắc dạy chữ thì mình cũng phải tự lực cánh sinh thôi! Vì thế, chúng tôi xung phong để cùng cả nước xóa mù…”, ông nhớ lại.
Rời Hà Nội, ông và đồng đội đến Sơn La, rồi tỏa về các huyện xa xôi của Khu tự trị Thái – Mèo (nay gồm Điện Biên, Lai Châu, Sơn La và một phần Yên Bái, Lào Cai). Đây là vùng núi vừa qua chiến tranh, đời sống người dân còn ở mức tự cung tự cấp, nạn mù chữ gần như tuyệt đối. Đường đi bộ nhiều hơn đi xe, hàng hóa khan hiếm, y tế thiếu thốn, mùa mưa thường xuyên sạt lở. Ông Thuật kể, nhiều người miền xuôi khi nghe nhắc đến Tây Bắc khi ấy vẫn hình dung đó là vùng “ma thiêng nước độc”, nhưng tuổi trẻ của ông chỉ có một suy nghĩ giản dị: “Mình đi để bà con biết chữ, để trẻ con được cắp sách đến trường”.
Thời gian đầu, mỗi xã chỉ có một thầy hoặc cô phụ trách, lớp không phân biệt độ tuổi, bao nhiêu học sinh cũng dạy, thậm chí một học sinh cũng duy trì. Lương tháng vẻn vẹn 45 nghìn đồng, thầy cô xin cơm ở cùng dân. Đến Tết, họ ăn theo tiêu chuẩn "chuyên da” – bì lợn mậu dịch bán được gói thành giò, toàn bì, quý như vàng. “Ngày đó hiếm lắm, luộc lên thơm phức, ăn ngon và nhớ mãi…”, ông Thuật cười hiền.
Thầy Nguyễn Thiện Thuật say sưa kể về những ngày tháng khó khăn khi mới đặt chân lên Tây Bắc.
Sáng kiến xóa ngọng và bài học từ Đại tướng
Những ngày đầu đứng lớp, ông nhận thấy nhiều học sinh Thái không phân biệt được một số phụ âm như “đ” – “l”, “b” – “đ”. “Cánh đồng” bị đọc thành “cánh lồng”, “cái lồng” thành “cái đồng”. Ông nghĩ ra cách viết các chữ hay nhầm lên mo lang, treo quanh lớp. Khi đọc đến từ khó, học trò lập tức nhìn lên, ghi nhớ bằng ý nghĩa thay vì học vẹt. Nhờ sáng kiến ấy, bốn năm liền, lớp ông đều đạt 100% lên lớp; Sở Giáo dục cử ông đi nhiều nơi để áp dụng.
Ông tâm niệm, dạy học phải tìm tòi, tỉ mỉ, không giảng qua loa theo sách. Với học sinh dân tộc, thầy cần am hiểu và tôn trọng văn hóa của họ. “Học trò lớp 4 của tôi có người gần bằng tuổi tôi, thậm chí hơn tuổi. Nếu mình không tôn trọng thì không thể dạy được”, ông nói.
Một kỷ niệm sâu đậm là lần Đại tướng Võ Nguyên Giáp lên thăm trường. Khi biết đội văn nghệ chỉ chọn học sinh người Kinh vì “học sinh dân tộc nói ngọng”, Đại tướng nhắc: “Ở vùng dân tộc phải đưa các em vào sinh hoạt chung, hòa đồng, không được tách riêng”. Lời dạy ấy, ông Thuật ghi lòng: “Ở khu dân tộc phải lấy dân tộc làm gốc để phát triển, đoàn kết dân tộc”.
Giá sách được thầy Thuật nâng niu mỗi ngày.
Ở lại với Tây Bắc
Năm 1963, dù tỉnh định điều ông về Ty Giáo dục, huyện Tuần Giáo (cũ) vẫn giữ lại vì ông am hiểu tiếng dân tộc, nắm rõ địa bàn. Mười năm tiếp theo, ông tiếp tục gắn bó với lớp học vùng cao. Trong quãng thời gian đó, ông gặp và đem lòng yêu cô Nguyễn Thị Chung – em gái một đồng nghiệp và quyết định ở lại, coi Điện Biên là quê hương thứ hai.
Dù không thôi nhớ Hà Nội, ông vẫn giữ quan niệm giản dị: “Lấy cái vui của bà con làm cái vui của mình”. Có những ngày ông cùng bạn bè lội suối bắt cá, ăn cơm nếp ven suối, lấy ống tre thay bát chén, nhưng vui chẳng khác gì ngồi quán cà phê nơi phố thị.
Giờ đây, ở tuổi xế chiều, ông vẫn miệt mài đọc sách: “Nếu không đọc 700 – 1.200 trang mỗi ngày thì tôi không yên. Nghề giáo là phải đọc và đọc…”. Hành trình của ông không chỉ gieo chữ, xóa mù mà còn để lại một bài học nhân văn về sự kiên trì, sáng tạo và hòa đồng với đồng bào các dân tộc.
ĐIỆN BIÊN HÔM NAY
Quy mô mạng lưới: Năm học 2024-2025, toàn tỉnh có 484 trường/trung tâm với 7.454 lớp, 211.797 học sinh, sinh viên và học viên. Không có trường đại học, 04 trường cao đẳng, 04 trung tâm GDNN-GDTX khu vực, 01 Trung tâm hỗ trợ phát triển GD hòa nhập.
Tỷ lệ huy động: Mầm non 3-5 tuổi đạt 99,89%; tiểu học đạt 99,91%; THCS đạt 98,04%; THPT và tương đương đạt 80,47% (vượt kế hoạch).
Đội ngũ: 16.104 CBQL, giáo viên, nhân viên; thiếu 2.695 người so với định mức, trong đó thiếu 1.381 giáo viên. Giáo viên đạt chuẩn trở lên chiếm 82,8%.
Cơ sở vật chất: 77,26% phòng học kiên cố; nhiều phòng bộ môn, nội trú, công vụ chưa đạt chuẩn; thiết bị dạy học mới đáp ứng 50,8% định mức.
Chất lượng giáo dục: Tỷ lệ học sinh tiểu học hoàn thành chương trình đạt 99,53%; tốt nghiệp THPT (chương trình 2018) đạt 99,82%. Đạt 22 giải học sinh giỏi quốc gia; duy trì chuẩn PCGD tiểu học, THCS mức độ 3 và xóa mù chữ mức độ 2.
Khó khăn chính: Thiếu giáo viên một số môn; cơ sở vật chất chưa đồng bộ; nhiều điểm trường chưa có internet; ngân sách đầu tư hạn chế; chất lượng tiếng Anh chưa đồng đều.
Ngọc Diệp