Liên kết chuỗi giá trị, tạo động lực phát triển bền vững nông nghiệp

Liên kết chuỗi giá trị, tạo động lực phát triển bền vững nông nghiệp
2 giờ trướcBài gốc
Người dân xã Mường Thàng ứng dụng quy trình sản xuất an toàn, trồng cam sạchđáp ứng yêu cầu thị trường trong và ngoài tỉnh, hướng tới phát triển bền vững
Việc triển khai Kết luận số 81-KL/TW của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh lương thực quốc gia (Kết luận 81) đã tạo chuyển biến rõ rệt. Nông nghiệp Phú Thọ từng bước phát triển theo hướng giá trị gia tăng và bền vững, đặt liên kết chuỗi giá trị làm trục chính, khoa học – công nghệ làm động lực đột phá.
Giai đoạn 2020–2025 là thời điểm nhiều biến động, song tỉnh đã kịp thời thể chế hóa các chủ trương của Trung ương phù hợp thực tiễn. Phú Thọ ban hành kế hoạch hành động thực hiện Kết luận 81, lồng ghép mục tiêu an ninh lương thực vào kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp.
Tỉnh đồng thời rà soát, sửa đổi và bổ sung chính sách khuyến khích phát triển sản xuất hàng hóa tập trung, hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, phát triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã. Đây là bước đi quan trọng, tạo hành lang pháp lý thúc đẩy tổ chức sản xuất, nâng cao thu nhập và ổn định đời sống người dân nông thôn.
Sau hợp nhất, tổng diện tích gieo trồng hằng năm đạt khoảng 304 nghìn ha, sản lượng lương thực duy trì 1,13 triệu tấn. Tỉnh đã xây dựng 648 vùng trồng trọt tập trung với diện tích gần 80 nghìn ha; quản lý 788 mã số vùng trồng, trong đó 106 mã phục vụ xuất khẩu. Nhiều vùng sản xuất an toàn đạt chứng nhận VietGAP, GlobalGAP, hữu cơ. Các sản phẩm đặc sản như gạo J02, nếp Trung khe Miền Đồi, nếp gà gáy, nếp Quạ đen... được chứng nhận OCOP, từng bước khẳng định thương hiệu.
Chăn nuôi và thủy sản phát triển theo hướng trang trại, công nghệ cao, kiểm soát dịch bệnh tốt. Tổng đàn vật nuôi gần 40 triệu con; sản lượng thịt hơi đạt hơn 470 nghìn tấn; sản lượng thủy sản 88,6 nghìn tấn. Tỉnh đẩy mạnh nuôi cá lồng trên sông Đà, sông Lô, hồ Hòa Bình với hơn 6.400 lồng; đàn bò sữa đạt 18,6 nghìn con. Sản phẩm thịt, trứng, sữa đáp ứng nhu cầu trong tỉnh và xuất bán tới hơn 20/34 tỉnh, thành phố.
Liên kết theo chuỗi được tỉnh đặc biệt chú trọng, trở thành giải pháp nền tảng nâng cao giá trị và mở rộng thị trường. T toàn tỉnh đã hình thành 219 chuỗi cung ứng thực phẩm an toàn. Nổi bật là chuỗi bưởi (Đoan Hùng, bưởi đỏ Tân Lạc, bưởi Diễn), chuỗi chuối tại Lương Sơn, Cao Phong; chuỗi chăn nuôi bò sữa liên kết với Vinamilk, Cô gái Hà Lan; chuỗi chăn nuôi lợn hợp tác với Công ty CP.
Nhờ kiểm soát quy trình minh bạch và đồng bộ, giá trị sản phẩm tăng 15–20% so với sản phẩm ngoài chuỗi. Nhiều chuỗi thiết lập được mạng lưới phân phối rộng, tạo nền tảng hướng tới thị trường lớn và xuất khẩu.
Sau hợp nhất, tỉnh có 1.142 HTX nông nghiệp và hơn 1.100 trang trại đạt tiêu chí. Các HTX đổi mới quản trị, đa dạng hóa dịch vụ, đẩy mạnh cơ giới hóa, bao tiêu sản phẩm và tổ chức sản xuất theo chuỗi. Đây là hạt nhân quan trọng thúc đẩy sản xuất hàng hóa quy mô lớn và tạo điểm tựa lan tỏa mô hình hiệu quả.
Phú Thọ coi chế biến là khâu đột phá để tái cơ cấu nông nghiệp. Toàn tỉnh có 242 cơ sở chế biến và kinh doanh nông sản, 35 làng nghề. Nhiều cơ sở đã đầu tư đổi mới dây chuyền, đảm bảo an toàn thực phẩm và nâng cao năng lực cạnh tranh.
Chế biến chè tiếp tục là thế mạnh truyền thống với 14,5 nghìn ha chè, sản lượng trên 180 nghìn tấn búp tươi. Tỉnh có 18 doanh nghiệp xuất khẩu chè với sản lượng trên 21 nghìn tấn, vươn tới các thị trường Trung Đông, Ấn Độ, Nga, Mỹ. Một số cơ sở chế biến gạo, rau quả sấy, thịt, sản phẩm OCOP... từng bước hình thành chuỗi sản xuất – chế biến – tiêu thụ khép kín.
Sau hợp nhất, toàn tỉnh có 609 sản phẩm OCOP từ 3 sao trở lên, gồm 6 sản phẩm 5 sao, 100 sản phẩm 4 sao và hơn 500 sản phẩm 3 sao. OCOP giúp củng cố thương hiệu, nâng cao giá trị nông sản Phú Thọ và hỗ trợ phát triển thị trường tiêu thụ.
Tỉnh đẩy mạnh cơ giới hóa khâu gieo cấy, thu hoạch; đầu tư kho lạnh, kho sấy; ứng dụng công nghệ bảo quản, chế biến, truy xuất nguồn gốc... Qua đó giảm hao hụt sau thu hoạch, mở rộng tiêu thụ qua sàn thương mại điện tử và hệ thống siêu thị. Dù quy mô chế biến sâu và hạ tầng bảo quản còn hạn chế, tỉnh xác định tiếp tục thu hút doanh nghiệp đầu tư, xây dựng trung tâm sơ chế – bảo quản tập trung.
Hệ thống giao thông nông thôn dài hơn 25.400 km, tỷ lệ kiên cố hóa đạt 81,5%. Tỉnh chú trọng đầu tư hạ tầng thủy lợi, thương mại, chợ dân sinh, dịch vụ logistics, tạo điều kiện lưu thông nông sản và thu hút doanh nghiệp về nông thôn. Ứng dụng công nghệ trong quản lý hạ tầng giúp nâng cao hiệu quả liên kết sản xuất – tiêu thụ.
Sau 5 năm thực hiện Kết luận 81, Phú Thọ đã xây dựng nền nông nghiệp ổn định, nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị nông sản; hình thành nhiều vùng sản xuất hàng hóa lớn, chuỗi liên kết hiệu quả; góp phần bảo đảm an ninh lương thực và cải thiện đời sống nông dân.
Tuy nhiên, tỉnh vẫn đối mặt thách thức: biến đổi khí hậu, công nghệ chế biến sâu còn hạn chế, yêu cầu cao của các thị trường xuất khẩu. Thời gian tới, Phú Thọ ưu tiên thu hút đầu tư vào chế biến, hoàn thiện hạ tầng logistics, đẩy mạnh hợp tác quốc tế về an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc, đáp ứng tiêu chuẩn các FTA thế hệ mới như CPTPP, EVFTA, RCEP, củng cố liên kết chuỗi giá trị, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững và nâng cao vị thế nông sản Đất tổ.
Lê Chung
Nguồn Phú Thọ : https://baophutho.vn/lien-ket-chuoi-gia-tri-tao-dong-luc-phat-trien-ben-vung-nong-nghiep-243186.htm