Đại biểu Hà Sỹ Huân - Đoàn ĐBQH tỉnh Thái Nguyên. Ảnh: Media Quốc hội.
Sáng ngày 5/12, tiếp tục kỳ họp thứ 10, Quốc hội thảo luận ở Hội trường về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đến năm 2035.
Theo tờ trình của Chính phủ, tổng vốn thực hiện chương trình, giai đoạn I (2026 - 2030), dự kiến tổng nguồn lực huy động thực hiện Chương trình tối thiểu khoảng 1,23 triệu tỷ đồng.
Trước mắt, vốn ngân sách Trung ương hỗ trợ trực tiếp khoảng 100.000 tỷ đồng, chiếm 8%; vốn ngân sách địa phương các cấp (tỉnh, xã) là 400.000 tỷ đồng, chiếm 33%; vốn lồng ghép từ các chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình, dự án khác khoảng 360.000 tỷ đồng, chiếm 29%; vốn tín dụng chính sách khoảng 22.686 tỷ đồng, chiếm 2%; vốn doanh nghiệp và huy động đóng góp của cộng đồng và người dân khoảng 348.000 tỷ đồng, chiếm 28%.
Góp ý vào nội dung này, đại biểu Hà Sỹ Huân - Đoàn ĐBQH tỉnh Thái Nguyên cho rằng, trong cơ cấu vốn ngân sách dành cho chương trình thì 80% dựa vào ngân sách địa phương, 20% ngân sách trung ương là không hợp lý. Tỷ lệ vốn đối ứng của ngân sách địa phương quá cao, tạo gánh nặng tài chính lớn trong khi đa phần địa phương thực hiện chương trình này đều khó khăn, nhất là với các tỉnh có đông đồng bào dân tộc thiểu số.
"Vùng lõi nghèo hiện nay chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số, ngân sách địa phương rất khó khăn, không đủ "gánh" tỷ trọng vốn đối ứng 80% như dự thảo. Đề nghị cần nâng tỷ lệ đóng góp của ngân sách trung ương lên để đảm bảo Chương trình khả thi," đại biểu Huân kiến nghị.
Đại biểu Trần Thị Hoa Ry - Đoàn ĐBQH tỉnh Cà Mau
Đại biểu Trần Thị Hoa Ry - Đoàn ĐBQH tỉnh Cà Mau cũng đồng tình, với tỷ lệ vốn ngân sách địa phương chiếm 80% trong tổng số vốn ngân sách của Trung ương và địa phương (cụ thể giai đoạn 2026-2030, vốn ngân sách Trung ương là 100.000 tỷ đồng, vốn ngân sách địa phương là 400.000 tỷ đồng). Như trong báo cáo thẩm tra đã đề cập, đây là một thách thức rất lớn, đặc biệt đối với các tỉnh nghèo, vùng dân tộc thiểu số và miền núi vốn đã khó khăn trong việc cân đối ngân sách địa phương.
"Tôi đề nghị xác định lại tỷ lệ đối ứng phù hợp, đặc biệt với các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa - nơi thậm chí 10% đối ứng cũng là thách thức," đại biểu nêu.
Đồng thời, cần quan tâm nguồn lực theo từng hợp phần phải đảm bảo rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm của từng đơn vị chủ trì từng nội dung, đặc biệt, nguồn vốn giao về cho địa phương cần được thông báo và phân bổ sớm, tập trung nguồn lực vào vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là các nội dung đặc thù để giải quyết các vấn đề khó khăn nhất.
Đại biểu Mai Văn Hải, Đoàn ĐBQH tỉnh Thanh Hóa. Ảnh: Media Quốc hội.
Trao quyền cho địa phương
Liên quan phân cấp quản lý về chương trình, đại biểu Mai Văn Hải - Đoàn ĐBQH tỉnh Thanh Hóa cho rằng, trong điều kiện sáp nhập tỉnh, thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp, quy mô tỉnh, quy mô các xã đều lớn hơn nhiều so với trước đây.
Điều này dẫn đến nhu cầu vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng và việc hoàn thiện các tiêu chí nông thôn mới sau sắp xếp là rất lớn. Nhiều tỉnh miền núi, xã miền núi còn nhiều khó khăn về ngân sách, trong khi với đa số các xã, nguồn đầu tư chủ yếu là tiền cấp quyền sử dụng đất dành cho đầu tư xây dựng nông thôn mới.
Nay nguồn vốn này cũng không được như giai đoạn trước đây, địa phương chỉ được hưởng 80 đến 85% tiền sử dụng đất nên sẽ lại càng khó khăn vốn đối ứng cho thực hiện chương trình.
Để đảm bảo tính khả thi của nguồn vốn, đại biểu đề nghị tăng cân đối ngân sách trung ương và cần có các giải pháp để huy động các nguồn vốn hợp pháp khác như nguồn vốn của doanh nghiệp, hợp tác xã, vốn của người dân trong thực hiện chương trình mục tiêu.
Trong đó cần tăng vốn ngân sách trung ương cho hợp phần phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Cùng quan điểm, đại biểu Hà Sỹ Huân đánh giá cao cơ chế thực hiện chương trình theo hướng: Trung ương quản lý tổng thể và ban hành cơ chế chính sách, hướng dẫn, giám sát, kiểm tra, phân cấp, phân quyền triệt để đi đôi với việc phân bổ nguồn lực cho địa phương theo tinh thần "địa phương quyết, địa phương làm và địa phương chịu trách nhiệm".
Tuy nhiên, cơ chế này cần được làm rõ và triển khai triệt để hơn nữa. Tại khoản 5 Điều 1 và Điều 3 của dự thảo nghị quyết đã phân cấp cho HĐND cấp tỉnh quyết định phân bổ nguồn lực và tổ chức thực hiện chương trình.
Từ thực tiễn, đại biểu cho rằng, việc phân cấp này thủ tục còn rườm rà, mất nhiều thời gian, làm thiếu tính chủ động ở cơ sở và khó tránh tình trạng đầu tư dàn trải, manh mún đã được chỉ ra ở giai đoạn trước.
Các nội dung của chương trình phần lớn đầu tư là hạ tầng, kỹ thuật, mô hình phục vụ sinh kế, phục vụ người dân trên địa bàn các xã, thôn. Đại biểu cho rằng, hiện nay, thực hiện chính quyền địa phương 2 cấp, cấp xã đã trực tiếp quản lý địa bàn, nắm rõ đối tượng, điều kiện văn hóa, địa hình, sinh kế của địa phương.
Vì vậy, để thực hiện phương châm "người dân làm chủ" và tăng cường hiệu quả đầu tư cơ sở, đại biểu đề nghị Quốc hội xem xét điều chỉnh phân cấp quản lý thực hiện chương trình mạnh mẽ, triệt để hơn nữa cho chính quyền cơ sở, theo hướng phân cấp cho cấp xã quyết định tổ chức thực hiện chương trình. Cấp tỉnh giữ vai trò định hướng, kiểm tra, giám sát, hỗ trợ kỹ thuật và thủ tục hành chính.
Trong đó, trao quyền cho địa phương, cụ thể là HĐND cấp xã và UBND cấp xã được quyết định danh mục, kế hoạch triển khai thực hiện, mô hình phù hợp theo thứ tự ưu tiên từng giai đoạn; quyết định lồng ghép, phối hợp hoặc đồng bộ các hợp phần, các nguồn vốn của chương trình và các dự án trên địa bàn nhằm tránh đầu tư trùng lặp, dàn trải, manh mún, bỏ sót nhiệm vụ.
Kiều Chinh