Cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng A Pa Chải, Bộ đội Biên phòng tỉnh Điện Biên tuần tra biên giới. Ảnh: Quốc Tập
Khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố được ví như những “pháo đài” trong thế trận chiến tranh nhân dân. Trước đây, tư duy xây dựng khu vực phòng thủ dựa trên mối tương quan, liên hệ chặt chẽ: quân khu-tỉnh-huyện-xã. Trong đó, huyện, xã là pháo đài chiến đấu tại chỗ. Sự liên kết chặt chẽ này tạo nên một thế trận xuyên suốt và liên hoàn. Tuy nhiên, khi thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp (bỏ cấp huyện), sẽ đặt ra nhiều thách thức, trong đó xuất hiện những “khoảng trống” nhất định. Nếu trước đây, cấp huyện đóng vai trò điều phối các xã trong một khu vực, là nơi tập kết lực lượng dự bị động viên và hậu cần kỹ thuật cấp chiến thuật, thì khi bỏ cấp huyện, gánh nặng sẽ dồn trực tiếp lên hai đầu: Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh và các xã.
Đây không đơn thuần là câu chuyện hành chính, mà là bài toán về tốc độ cơ động phản ứng. Trong chiến tranh hiện đại, “thời cơ” được tính bằng giây. Nếu Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh phải trực tiếp chỉ huy hàng trăm xã mà không có cơ chế trung gian linh hoạt, nguy cơ quá tải thông tin và chậm trễ trong việc ra quyết định là hiện hữu. Mặc dù hiện nay, trung gian giữa xã và tỉnh có Ban Chỉ huy Phòng thủ khu vực, nhưng cơ chế chỉ huy, điều hành chưa được kiểm nghiệm trong thực tiễn, vì vậy sẽ có nhiều vướng mắc cần giải quyết.
Khi không còn cấp huyện về mặt hành chính, về mặt quân sự, chúng ta phải xây dựng các “cụm xã, phường liên kết”. Đây không phải là một cấp hành chính mới, mà là các khu vực quân sự được quy hoạch dựa trên địa hình, giao thông và phương án tác chiến. Tỉnh sẽ không chỉ huy đơn lẻ từng xã, mà chỉ huy các “cụm tác chiến”, các cụm khu vực phòng thủ tương ứng. Các cụm này phải có khả năng độc lập tác chiến cao hơn, tự chủ về hậu cần tại chỗ tốt hơn. Nếu trước đây, xã chỉ là “pháo đài”, thì nay xã phải là những “căn cứ” có khả năng hỗ trợ hỏa lực và nhân lực cho xã lân cận mà không cần chờ lệnh từ cấp trên. Yêu cầu đặt ra cho Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh lúc này là năng lực chỉ huy, tham mưu phải linh hoạt, nhạy bén. Hệ thống thông tin liên lạc không thể đi qua nhiều nấc trung gian mà phải kết nối thẳng đến các cụm xã trọng điểm. Điều này đòi hỏi hạ tầng viễn thông quân sự phải đi trước một bước, đảm bảo sự thông suốt ngay cả khi bị gây nhiễu, tác chiến điện tử cường độ cao.
Trong mô hình hai cấp, lực lượng tại chỗ (Dân quân tự vệ, Công an xã) trở thành lá chắn đầu tiên và quan trọng nhất. Yêu cầu đặt ra là trang bị và khả năng huấn luyện của lực lượng này phải tiệm cận với bộ đội địa phương. Họ không chỉ biết bắn súng, mà còn phải biết sử dụng công nghệ để trinh sát, báo cáo và xử lý các tình huống an ninh phi truyền thống ngay từ cơ sở.
Bối cảnh thế giới hiện nay cho thấy, chiến tranh công nghệ cao, sử dụng vũ khí chính xác và thiết bị bay không người lái đã làm thay đổi hoàn toàn khái niệm về “tiền tuyến” và “hậu phương”. Trong bối cảnh đó, xây dựng khu vực phòng thủ tại Việt Nam phải mang tư duy mới: khu vực phòng thủ không còn giới hạn ở địa giới hành chính trên bản đồ. Nó mở rộng ra không gian mạng và không gian điện từ. Một cuộc tấn công mạng vào hệ thống điện, nước, giao thông của một thành phố có sức tàn phá ngang ngửa, thậm chí gấp nhiều lần một đợt pháo kích. Do đó, xây dựng khu vực phòng thủ hiện nay buộc phải tích hợp “khu vực phòng thủ số”. Hệ thống camera giám sát giao thông, dữ liệu dân cư, hạ tầng viễn thông dân sự... phải được quy hoạch theo hướng “lưỡng dụng”. Trong thời bình phục vụ dân sinh, khi có chiến tranh chuyển sang trạng thái phục vụ quốc phòng.
Trước các phương tiện trinh sát vệ tinh và thiết bị bay không người lái hiện đại, việc tập trung lực lượng lớn hay xây dựng các công sự kiên cố lộ là mục tiêu dễ bị tấn công. Yêu cầu mới của khu vực phòng thủ là khả năng phân tán lực lượng nhưng tập trung hỏa lực. Hệ thống hầm hào, công sự vẫn cần thiết nhưng phải đi vào chiều sâu, tận dụng địa hình tự nhiên (hang động) và đặc biệt là hệ thống công trình ngầm dân sự (tầng hầm tòa nhà, cống ngầm...). “Thế trận lòng dân” lúc này chính là khả năng biến mọi kiến trúc đô thị thành vật che chắn, biến mọi thiết bị dân sự thành tai mắt trinh sát.
Những cuộc chiến tranh, xung đột diễn ra gần đây cho thấy sự nguy hiểm của thiết bị bay không người lái. Khu vực phòng thủ hiện đại, đặc biệt ở cấp xã/phường (nơi không có tên lửa phòng không hiện đại), phải xây dựng được các tổ, đội săn mục tiêu bay thấp bằng súng bộ binh tập trung, kết hợp với các giải pháp gây nhiễu thô sơ nhưng hiệu quả. Đây là nét độc đáo của chiến tranh nhân dân trong kỷ nguyên số.
Giữa những phân tích về chiến thuật và khí tài, chúng ta cần quay lại bản chất cốt lõi trong đường lối quốc phòng của Việt Nam: hòa bình, tự vệ. Việc chúng ta đầu tư xây dựng khu vực phòng thủ, dù ở mô hình hai cấp hay ba cấp, dù trang bị công nghệ hiện đại đến đâu, tuyệt đối không nhằm mục đích đe dọa bất kỳ ai. Chiến lược của Việt Nam là phòng ngự tích cực, phòng thủ chủ động. Tích cực ở đây nghĩa là không thụ động chờ giặc đến. Chúng ta xây dựng tiềm lực kinh tế gắn liền với quốc phòng. Đây chính là chủ trương “Ngụ binh ư nông” thời hiện đại. Tích cực là chuẩn bị phương án để ngăn ngừa nguy cơ từ sớm, từ xa. Tự vệ nghĩa là chúng ta chỉ cầm súng khi buộc phải bảo vệ độc lập, chủ quyền và sự bình yên của nhân dân.
Tổng công ty Công nghiệp công nghệ cao Viettel (Viettel High Tech) đã làm chủ công nghệ, tự nghiên cứu, phát triển và chế tạo nhiều loại thiết bị bay không người lái hiện đại phục vụ nhiệm vụ trinh sát, chỉ thị mục tiêu và tấn công chính xác, giúp lực lượng vận hành chủ động trong mọi tình huống. Ảnh: Bích Nguyên
Sự chuyển dịch sang mô hình chính quyền hai cấp thực chất là cơ hội để chúng ta rà soát lại thế trận, giúp bộ máy “nhẹ” hơn về biên chế nhưng buộc phải “chắc” hơn về thực lực. Việc giảm bớt khâu trung gian sẽ giúp mệnh lệnh từ cấp trên đến cơ sở nhanh hơn, trực diện hơn, kịp thời và hiệu quả hơn.
Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị Quân chính toàn quân năm 2025, đồng chí Lương Cường, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh nhấn mạnh: “Phối hợp triển khai cụ thể các giải pháp xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, hiện đại; xây dựng phòng thủ quân khu, khu vực phòng thủ các cấp vững chắc trong điều kiện mới và đặc biệt phải bảo đảm đồng bộ với tổ chức chính quyền địa phương hai cấp và đơn vị hành chính cấp tỉnh, cấp xã sau khi được tổ chức lại, bảo đảm thực sự hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tiếp tục thực hiện tốt chủ trương kết hợp quốc phòng với kinh tế, kinh tế với quốc phòng; phát huy vai trò rất quan trọng, làm nòng cốt của các binh đoàn, đoàn kinh tế-quốc phòng tham gia phát triển kinh tế-xã hội, ổn định dân cư ở địa bàn biên giới, biển, đảo, góp phần xây dựng thế trận quốc phòng, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, biên giới, biển, đảo quốc gia”.
Như vậy, xây dựng khu vực phòng thủ trong tình hình mới là một bài toán khó, đòi hỏi sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa nghệ thuật quân sự truyền thống và tư duy quân sự, quốc phòng hiện đại. Dù tổ chức hành chính có thay đổi thế nào (ba cấp hay hai cấp), thì “biến số” con người và lòng dân vẫn là hằng số bất biến. Thách thức của chiến tranh công nghệ cao là rất lớn, nhưng lịch sử đã chứng minh: vũ khí hiện đại có thể hủy diệt vật chất, nhưng không thể khuất phục được một dân tộc có thế trận lòng dân vững chắc, được tổ chức khoa học và linh hoạt. Mô hình chính quyền mới, nếu được vận dụng khéo léo vào quốc phòng, sẽ tạo ra một thế trận “phẳng hơn về chỉ huy, sâu hơn về tiềm lực”, biến mỗi ngôi nhà, mỗi góc phố thực sự trở thành một pháo đài bất khả xâm phạm.
Diệp Chi