Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến: Tiếng nói của dân tộc khát khao hòa bình

Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến: Tiếng nói của dân tộc khát khao hòa bình
6 giờ trướcBài gốc
Từ dã tâm và sự bội ước của thực dân Pháp
Có được nền độc lập đã vô cùng khó, với Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cách đây 77 năm, để gìn giữ nền độc lập mới giành được còn khó khăn gấp bội. Thời điểm cuối năm 1945 và đầu năm 1946 là thời điểm các thế lực thù địch trong và ngoài nước dường như chỉ trực chờ cơ hội để lật đổ chính phủ cách mạng non trẻ.
Quân và dân Thủ đô lập chốt chiến đấu trên phố Hàng Bài. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Trước tình hình ấy, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích tình hình và xác định kẻ thù chính là thực dân Pháp xâm lược, lực lượng của Tưởng và bọn tay sai phản động là kẻ thù nguy hiểm. “Kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng” - Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc của Ban Thường vụ Trung ương Đảng ngày 25/11/1945, chỉ rõ.
Trên cơ sở phân tích rõ những thuận lợi và khó khăn, Trung ương Đảng đã đề ra nhiệm vụ quan trọng trước mắt là củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược ở Nam Bộ, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống của nhân dân, tích cực chuẩn bị mọi mặt cho kháng chiến lâu dài.
Phiên họp bất thường của Chính phủ ngày 4/3/1946 đã cử Hồ Chí Minh và Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Tường Tam phụ trách việc đàm phán với đại diện của Chính phủ Pháp. Cũng ngày 5/3/1946, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp mở rộng ở làng Canh (Hà Đông), nhất trí tán thành chủ trương hòa để tiến, quyết định tạm thời hòa hoãn với thực dân Pháp để có thêm thời gian chuẩn bị lực lượng, đồng thời loại bớt một kẻ thù nguy hiểm là chính quyền Tưởng Giới Thạch.
Để nhanh chóng gạt quân Tưởng về nước, đồng thời có thêm điều kiện chuẩn bị tiềm lực, ngày 6/3/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký với đại diện Chính phủ Pháp (Xanhtơni) bản Hiệp định sơ bộ, chấp thuận cho quân Pháp ra miền Bắc thay quân Tưởng làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật. Tiếp đó, ngày 14/9/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký với Chính phủ Pháp bản Tạm ước nhượng bộ cho Pháp thêm một số quyền lợi về kinh tế - văn hóa ở Việt Nam. Điều đó thể hiện quyết tâm sắt đá bảo vệ nền độc lập của đất nước vừa giành được, đồng thời biểu thị nguyện vọng hòa bình của toàn thể dân tộc Việt Nam.
Tuy vậy, với dã tâm cướp nước ta một lần nữa, thực dân Pháp đã bội ước những vấn đề đã ký kết, lấn tới, tuyên bố: Thi hành mọi biện pháp quân sự nhằm khôi phục quyền thống trị.
Trước tình hình đó, Chính phủ nước ta vẫn kiên trì tìm cách duy trì hòa bình, tránh cuộc chiến tranh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố: ''Đồng bào tôi và tôi thành thực muốn hòa bình. Chúng tôi không muốn chiến tranh .. .”. Tuy nhiên, mọi nỗ lực từ phía Việt Nam đều đã không được lắng nghe.
Cuối năm 1946, sau khi có thêm viện binh, thực dân Pháp liên tục tiến hành các hành động khiêu khích. Tháng 11/1946, chúng chiếm đóng Hải Phòng, Lạng Sơn, chính thức gây ra cuộc chiến tranh xâm lược miền Bắc. Tại Hà Nội, từ đầu tháng 12/1946, quân Pháp liên tục dùng đại bác, súng cối bắn phá vào nhiều khu phố tàn sát dân thường... đưa quân chiếm một số trụ sở cách mạng. Đặc biệt, ngày 18 và 19/12/1946, thực dân Pháp đã liên tiếp gửi tối hậu thư buộc Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải phá bỏ công sự trong thành phố, giải tán lực lượng tự vệ, giao quyền kiểm soát Thủ đô cho chúng. Chúng tuyên bố nếu các yêu cầu trên không được Chính phủ Việt Nam chấp nhận thì chậm nhất vào sáng ngày 20- 12- 1946 quân Pháp sẽ chuyển sang hành động.
Dã tâm và sự bội ước của quân Pháp đã buộc chúng ta phải có một sự lựa chọn lịch sử. Ngày 18 và 19/12/1946, tại làng Vạn Phúc, Hà Đông, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định chủ trương phát động cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trên phạm vi cả nước.
Tới lời hịch non sông khơi dậy lòng yêu nước
Bản viết tay lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/12/1946). Ảnh: TTXVN
Cũng ngay trong đêm 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ ra Lời kêu gọi đồng bào cả nước kháng chiến. , trong đó khẳng định rõ: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên!
Sáng 20/12/1946, Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh được phát đi khắp cả nước: “Hỡi đồng bào toàn quốc! Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.
Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!
Giờ cứu quốc đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước.
Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!
Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm!
Kháng chiến thắng lợi muôn năm!"
Theo nhìn nhận của các chuyên gia, Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh có giá trị lịch sử như một Cương lĩnh kháng chiến, chứa đựng những quan điểm cơ bản về tư tưởng, đường lối chiến tranh nhân dân, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, truyền thống anh hùng, bất khuất, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh; là mệnh lệnh tiến công cách mạng, tạo khí thế để nhân dân cả nước đứng lên chiến đấu với mọi vũ khí sẵn có cùng một ý chí quyết đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi bờ cõi Việt Nam.
Lời kêu gọi của Người rất ngắn gọn, súc tích, vạch trần dã tâm xâm lược của thực dân Pháp, trình bày lập trường và nguyện vọng thiết tha với hòa bình của dân tộc ta. Người cũng đã vạch ra chiến lược chiến tranh nhân dân, huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, đồng thời khẳng định cuộc kháng chiến sẽ nhất định đi đến thắng lợi.
Ban chỉ huy Trung đoàn Thủ đô bàn kế hoạch tác chiến trong những ngày Toàn quốc kháng chiến. Ảnh: Tư liệu/TTXVN phát
Điều đáng nói nhất là, ra đời trong thời khắc lịch sử đặc biệt, “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tác động đến sâu thẳm lòng yêu nước và ý chí quật cường của dân tộc để rồi đã là mệnh lệnh thiêng liêng giục giã quân dân ta anh dũng tiến lên giành thắng lợi.
Cao hơn nữa, “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” kết tinh thiện chí, khao khát hòa bình của một dân tộc có truyền thống quật cường, bất khuất. “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng”- “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” đã chỉ rõ, cho thấy chúng ta đã kiên trì, không bỏ qua bất cứ một cơ hội nào để thương lượng, đàm phán, kể cả việc cố gắng nhân nhượng đến mức có thể, nhằm tránh khỏi một cuộc chiến tranh.
Và để có hòa bình, gìn giữ nền độc lập tự do bao nhiêu năm mới tạo dựng được, nhân dân Việt Nam chỉ có một con đường duy nhất là đứng lên kháng chiến. “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”- “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” khẳng định quyết tâm sắt đá bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc Việt.
Vì thế, “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tiếng nói của non sông đất nước, tiếng nói của dân tộc khát khao hòa bình, là mệnh lệnh thiêng liêng giục giã quân dân ta anh dũng tiến lên giành thắng lợi. 78 năm qua, lời hịch non sông, mệnh lệnh thiêng liêng ấy, khát khao hòa bình ấy vẫn là ngọn đuốc đưa dân tộc ta, đất nước ta tới những giai đoạn phát triển mới.
Hà Anh
Nguồn Công Luận : https://congluan.vn/loi-keu-goi-toan-quoc-khang-chien-tieng-noi-cua-dan-toc-khat-khao-hoa-binh-post326380.html