Ảnh minh họa.
Bộ Tư pháp vừa đăng tải tài liệu thẩm định dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công chứng.
Theo Bộ Tư pháp, việc xây dựng dự án luật nhằm thúc đẩy tạo lập dữ liệu phục vụ chuyển đổi số toàn diện, hướng tới việc xây dựng cơ sở dữ liệu dùng chung, xuyên suốt từ trung ương đến địa phương. Đồng thời cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp.
Trên cơ sở kết quả rà soát, Bộ Tư pháp đề xuất giảm bớt số lượng giao dịch phải công chứng, chứng thực. Theo đó, chuyển một số loại giao dịch từ “phải công chứng” sang “công chứng tự nguyện, theo yêu cầu”. Những loại giao dịch được chuyển sang công chứng tự nguyện, theo yêu cầu khi đáp ứng 3 tiêu chí:
Thứ nhất, đã có cơ chế thay thế để các bên tự chịu trách nhiệm về tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng hoặc đã có cơ chế để cơ quan Nhà nước xác nhận, kiểm soát giá trị pháp lý, tính hợp pháp của văn bản, giao dịch. Ví dụ: đối với việc ủy quyền của tổ chức thì khi tổ chức thực hiện ủy quyền đã có con dấu của tổ chức xác nhận vào văn bản ủy quyền nên không cần thực hiện công chứng, chứng thực.
Thứ hai, giao dịch ít ảnh hưởng đến bên thứ ba.
Thứ ba, giao dịch đơn giản, có thể xử lý thông qua việc kết nối, chia sẻ dữ liệu.
Theo đó, Bộ Tư pháp đề xuất 2 phương án thu hẹp phạm vi giao dịch phải công chứng.
Phương án 1: cơ bản kế thừa hướng quy định nguyên tắc như Luật Công chứng năm 2024; tuy nhiên chỉnh lý theo hướng giao dịch phải công chứng được quy định trong văn bản luật, không bao gồm giao dịch được quy định trong văn bản nghị định.
Theo rà soát của Bộ Tư pháp, việc chỉnh lý Điều 3 theo hướng này sẽ giúp giảm bớt ít nhất là 06 loại giao dịch phải công chứng hiện đang được quy định trong các Nghị định mà không ảnh hưởng đến thẩm quyền và trách nhiệm xác định giao dịch phải công chứng tại các văn bản luật hiện hành và văn bản luật sẽ được ban hành trong thời gian tới.
Với phương án này, “Giao dịch phải công chứng là giao dịch quan trọng, đòi hỏi mức độ an toàn pháp lý cao mà luật quy định phải công chứng.
Bộ Tư pháp có trách nhiệm rà soát, cập nhật, đăng tải các giao dịch phải công chứng, chứng thực trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp”.
Phương án 2: quy định cụ thể về các giao dịch phải công chứng ngay trong Luật Công chứng, đồng thời có quy định mở trong trường hợp các luật khác có quy định mới về giao dịch phải công chứng. Đối với những giao dịch không được liệt kê thì thuộc trường hợp công chứng tự nguyện, theo yêu cầu.
Với phương án này, dự thảo quy định 8 loại giao dịch phải công chứng gồm:
- Hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, tài sản gắn liền với đất, tài sản gắn liền với đất và quyền thuê theo hợp đồng thuê đất giữa các cá nhân hoặc giữa các cá nhân với tổ chức không hoạt động kinh doanh bất động sản hoặc giữa các tổ chức không hoạt động kinh doanh bất động sản; hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, tài sản gắn liền với đất;
- Hợp đồng cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất; hợp đồng hợp tác kinh doanh bằng quyền sử dụng đất; văn bản chấp thuận của người sử dụng đất đồng ý cho xây dựng nhà ở và công trình xây dựng; văn bản thỏa thuận của các thành viên có chung quyền sử dụng đất đồng ý đưa quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp;
- Hợp đồng mua bán, thuê mua, tặng cho, đổi, góp vốn, thế chấp bằng nhà ở giữa các cá nhân hoặc giữa các cá nhân với tổ chức không hoạt động kinh doanh bất động sản hoặc giữa các tổ chức không hoạt động kinh doanh bất động sản;
- Hợp đồng chuyển nhượng hợp đồng kinh doanh bất động sản, hợp đồng mua bán, thuê mua nhà ở, công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng mà các bên tham gia giao dịch là các cá nhân, cá nhân với tổ chức không hoạt động kinh doanh bất động sản hoặc giữa các tổ chức không hoạt động kinh doanh bất động sản;
- Văn bản về thừa kế quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, tài sản gắn liền với đất; văn bản thừa kế về nhà ở;
- Văn bản lựa chọn người giám hộ; văn bản thỏa thuận về việc mang thai hộ;
-Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ.
- Các loại giao dịch khác được luật quy định phải công chứng.
6 loại giao dịch dự kiến không bắt buộc phải công chứng, chứng thực trong các nghị định gồm:
(1) Văn bản ủy quyền của người có tên trong hợp đồng thuê nhà ở đã xuất cảnh ra nước ngoài cho các thành viên khác đứng tên mua nhà ở trong Hồ sơ đề nghị bán nhà ở cũ thuộc tài sản công (Khoản 1 Điều 75 của Nghị định số 95/2024/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Nhà ở);
(2) Hợp đồng chuyển nhượng hợp đồng kinh doanh bất động sản (Các điểm a, b, c khoản 2 Điều 13 của Nghị định số 96/2024/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Kinh doanh bất động sản);
(3) Văn bản thỏa thuận của các thành viên có chung quyền sử dụng đất đồng ý đưa quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp (Điểm b khoản 7 Điều 30 của Nghị định số 101/2024/NĐ-CP quy định về điều tra cơ bản đất đai; đăng ký, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất và Hệ thống thông tin đất đai);
(4) Văn bản ủy quyền giải quyết việc thi hành án liên quan đến tài sản khi người phải thi hành án xuất cảnh (Điểm a, điểm b khoản 2 Điều 51 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự);
(5) Văn bản ủy quyền thực hiện quyền khiếu nại (Khoản 3 Điều 5 Nghị định 124/2020/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Khiếu nại);
(6) Hợp đồng chuyển nhượng Văn phòng Thừa phát lại (Điểm b khoản 3 Điều 28 Nghị định số 08/2020/NĐ-CP quy định về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại).
Đỗ Mến