Theo đó, Điều 1, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam đã sửa đổi, bổ sung tên điều và một số khoản của Điều 23, Luật Quốc tịch Việt Nam về điều kiện được trở lại quốc tịch Việt Nam.
Cụ thể, điều kiện được trở lại quốc tịch Việt Nam được quy định như sau:
1. Người đã mất quốc tịch Việt Nam theo quy định tại Điều 26 của Luật này có đơn xin trở lại quốc tịch Việt Nam thì được xem xét giải quyết trở lại quốc tịch Việt Nam.
2. Người xin trở lại quốc tịch Việt Nam không được trở lại quốc tịch Việt Nam nếu việc đó làm phương hại đến lợi ích quốc gia của Việt Nam.
Người thân chờ đón kiều bào về quê ăn tết ở Sân bay Tân Sơn Nhất.
3. Trường hợp người bị tước quốc tịch Việt Nam xin trở lại quốc tịch Việt Nam thì phải sau ít nhất 5 năm, kể từ ngày bị tước quốc tịch mới được xem xét cho trở lại quốc tịch Việt Nam.
4. Người xin trở lại quốc tịch Việt Nam phải lấy lại tên gọi Việt Nam trước đây. Trường hợp người xin trở lại quốc tịch Việt Nam đồng thời xin giữ quốc tịch nước ngoài thì có thể lựa chọn tên ghép giữa tên Việt Nam và tên nước ngoài. Tên gọi này phải được ghi rõ trong quyết định cho trở lại quốc tịch Việt Nam.
5. Người xin trở lại quốc tịch Việt Nam được giữ quốc tịch nước ngoài nếu đáp ứng các điều kiện sau đây và được Chủ tịch nước cho phép:
a) Việc giữ quốc tịch nước ngoài phù hợp với pháp luật của nước đó.
b) Không sử dụng quốc tịch nước ngoài để gây phương hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, xâm hại an ninh, lợi ích quốc gia, trật tự, an toàn xã hội của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nguyễn Hương