Sau gần 40 năm đổi mới, khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ cả về lượng và chất, từng bước khẳng định vai trò trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Những kết quả tích cực về đóng góp cho GDP cũng như tốc độ tăng trưởng khẳng định vững chắc vai trò trung tâm và tiềm năng to lớn của khu vực kinh tế tư nhân, đồng thời, đặt nền tảng cho việc nâng tầm vị trí của khu vực này thành động lực chính trong thực hiện mục tiêu tăng trưởng nhanh, bền vững của Việt Nam.
Tuy nhiên, so với kỳ vọng trở thành trụ cột phát triển kinh tế quốc gia, khu vực kinh tế tư nhân vẫn còn nhiều khó khăn, bắt đầu từ nhiều rào cản bủa vây xung quanh.
GS.TS Ngô Thắng Lợi, Đại học Kinh tế Quốc dân (NEU), nhận định, các doanh nghiệp tư nhân gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận các yếu tố nguồn lực.
Đơn cử, về tiếp cận đất đai, nhiều doanh nghiệp tư nhân gặp khó khăn trong việc tiếp cận và đảm bảo quyền sử dụng đất đai ổn định cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Cùng với đó, các thủ tục giải phóng mặt bằng, thu hồi đất thường tốn thời gian, phương pháp tính giá đất, thủ tục cấp phép, thông tin quy hoạch còn gây nhiều bức xúc, cản trở tốc độ thu hồi và bàn giao đất sạch cho các nhà đầu tư.
Không chỉ vậy, giá thuê đất cao đang là một rào cản quan trọng đối với sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam, ông Lợi đánh giá tại tọa đàm về tháo gỡ các điểm nghẽn phát triển khu vực kinh tế tư nhân do NEU tổ chức ngày 15/8.
Với tiếp cận tín dụng, theo báo cáo PCI năm 2023, chưa đầy 18% doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân có khoản vay từ ngân hàng, một con số giảm mạnh so với mức gần 43% của năm 2020 với lý do chính là chính sách tín dụng không có lợi cho doanh nghiệp tư nhân và thủ tục rườm rà.
GS.TS Ngô Thắng Lợi - Đại học Kinh tế Quốc dân
Báo cáo Niềm tin kinh doanh do Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV) công bố hồi đầu tháng này cũng chỉ ra bức tranh tương tự.
Trong đó, đánh giá về triển vọng tiếp cận thị trường vốn trong 12 tháng tiếp theo tiếp tục cho thấy tín hiệu hồi phục đang bị chậm lại so với các cuộc khảo sát năm ngoái. Tỷ lệ doanh nghiệp đánh giá “tiêu cực/rất tiêu cực” chiếm đến gần 52%.
So sánh với kỳ khảo sát tháng 7/2024, một số chỉ báo thậm chí còn cho thấy khả năng tiếp cận vốn được doanh nghiệp đánh giá là khó khăn và thử thách hơn. Kết quả bi quan này cũng phù hợp với báo cáo mới đây của Ngân hàng nhà nước khi gần 80% doanh nghiệp nhỏ và vừa không có dư nợ tín dụng.
Tại tọa đàm của NEU, TS. Trần Văn Thế - Chủ tịch HĐQT Công ty Đầu tư và phát triển Indel, cũng nhấn mạnh, khả năng tiếp cận nguồn lực như vốn, đất đai và nhân lực chất lượng cao của doanh nghiệp tư nhân còn rất hạn chế.
Đơn cử, dù chiếm 98% số doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa chỉ tiếp cận chưa tới 20% tổng dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng, cũng chỉ chiếm dưới 10% vốn hóa trên thị trường chứng khoán.
Bên cạnh đó, theo ông Thế, rào cản khi thủ tục thuê đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất phức tạp, giá đất và chi phí mặt bằng cao vượt khả năng của doanh nghiệp.
Khó khăn thủ tục hành chính tăng cao
Ban IV trong báo cáo cho biết, so với các kỳ khảo sát trước, các rào cản như thủ tục hành chính, nguy cơ hình sự hóa, hay khó khăn về đơn hàng, dòng tiền và tiếp cận vay vốn vẫn tiếp tục tồn tại và gây áp lực lên doanh nghiệp.
Tuy nhiên, ở khảo sát lần này, các khó khăn liên quan đến thủ tục hành chính, đặc biệt là thủ tục hành chính phát sinh do sáp nhập địa phương, đã trở thành thách thức lớn nhất mà doanh nghiệp phải đối diện.
Điều này cho thấy, mặc dù Chính phủ và các bộ ngành đã tích cực triển khai các chính sách cắt giảm thủ tục hành chính nhưng thực tiễn khảo sát nửa đầu năm 2025 vẫn cho thấy thủ tục hành chính là rào cản lớn nhất.
Tính đến tháng 12/2023, đã có ít nhất 2.789 thủ tục hành chính được đơn giản hóa hoặc cắt giảm, tuy nhiên tác động thực chất đến doanh nghiệp vẫn còn hạn chế, đòi hỏi các cấp chính quyền cần tiếp tục nâng cao hiệu quả thực thi và gỡ bỏ điểm nghẽn lớn nhất này.
Ông Thế trong phát biểu tại diễn đàn cũng nhấn mạnh rào cản đến từ thủ tục hành chính còn rườm rà, thực thi chính sách thiếu đồng bộ. Ông nhấn mạnh, việc cải cách thủ tục hành chính không chỉ trên danh nghĩa mà cần đi vào thực chất, giúp doanh nghiệp tiết kiệm thời gian và chi phí tuân thủ.
Thực tiễn khảo sát nửa đầu năm 2025 vẫn cho thấy thủ tục hành chính là rào cản lớn nhất với doanh nghiệp. Ảnh: Hoàng Anh
Giải pháp thực chất
Để đạt được tốc độ tăng trưởng cao hơn nhiều so với hiện tại, ông Lợi nhấn mạnh cần phải tích cực tháo gỡ các nút thắt kìm hãm sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân trong nhiều năm qua.
Ông cùng nhóm nghiên cứu đã đề xuất bốn nhóm giải pháp quan trọng.
Trước hết là cần hoàn thiện tư duy và cách thức nhìn nhận khu vực kinh tế tư nhân, nhìn nhận kinh tế tư nhân theo quan điểm hệ thống. Ở đó, kinh tế tư nhân của người Việt Nam, hiểu cách tổng thể, là một bộ phận của nền kinh tế, được vận hành bởi các đơn vị kinh tế (ở trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam) mà chủ thể là người Việt Nam (bao gồm công dân Việt Nam và người Việt Nam định cư ở nước ngoài có quan hệ kinh tế với đất nước – gọi tắt là kinh tế tư nhân Việt kiều), đại diện cho sở hữu tư nhân (hoặc hộ kinh doanh cá thể) thực hiện kinh doanh vì lợi nhuận và các mục tiêu xã hội khác.
Trong lực lượng kinh tế tư nhân Việt Nam, vai trò và chức năng của mỗi thành tố được xác định trong mối liên hệ với các thành tố khác và với tổng thể - hệ thống, theo đó, các tập đoàn kinh tế (doanh nghiệp lớn và siêu lớn) đóng vai trò “trụ cột”, làm trục liên kết các doanh nghiệp nhỏ và vừa, tạo thành “chuỗi”, “mạng” sản xuất Việt Nam.
Trong thành tố cấu thành lực lượng kinh tế tư nhân, cần lưu ý bộ phận kinh tế tư nhân Việt Nam ở nước ngoài, bao gồm các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài và kinh tế tư nhân của người Việt Nam đang định cư ở nước ngoài có quan hệ kinh tế với đất nước.
Giải pháp quan trọng tiếp theo là đứng trên quan điểm phát triển bao trùm để tháo gỡ nút thắt về thể chế, chính sách trong phát triển kinh tế tư nhân với các bộ phận kinh tế khác.
Ông Lợi khuyến nghị, cần hoàn thiện chính sách tạo bình đẳng cho các doanh nghiệp tư nhân so với các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp FDI trong việc tiếp cận các cơ hội kinh doanh, tiếp cận các nguồn lực và có chính sách thuế bình đẳng.
Ngoài ra, cần phát triển đội ngũ doanh nhân Việt đáp ứng được yêu cầu mới của nền kinh tế phù hợp với bối cảnh hội nhập; xây dựng cơ chế hỗ trợ tài chính và chính sách khuyến khích doanh nhân tham gia đào tạo.
Kiều Mai