Mất cân bằng giới tính khi sinh và những hệ lụy

Mất cân bằng giới tính khi sinh và những hệ lụy
7 giờ trướcBài gốc
Tỉ số giới tính khi sinh vốn phản ánh sự cân bằng tự nhiên giữa bé trai và bé gái khi ra đời theo chuẩn mực sinh học ở mức 104 - 106 bé trai/100 bé gái. Khi tỉ số này vượt quá mức 106 bé trai/100 bé gái, cho thấy có sự khác biệt với mức sinh học bình thường và phản ánh những can thiệp có chủ ý trên khía cạnh về giới. Tại tỉnh Hưng Yên, từ đầu năm đến ngày 18/6/2025, tỉ số giới tính khi sinh là 120 bé trai/100 bé gái. Sự mất cân bằng giới tính khi sinh (MCBGTKS) sẽ làm ảnh hưởng đến sự mất cân bằng tự nhiên, đe dọa sự ổn định dân số và gây ra nhiều hệ lụy khó lường.
Vợ chồng chị Nguyễn Thị Nhung ở xã Phương Nam, thành phố Hưng Yên đã có 2 con gái nhưng vì chồng chị là con “độc đinh” nên cả gia đình đều tạo áp lực để chị sinh con trai nối dõi tông đường. Cách đây gần 2 năm, chị đã âm thầm đi tìm hiểu kinh nghiệm để sinh được con trai của một số chị em và tại phòng khám tư nhân. Sau đó, vợ chồng chị tuân thủ theo chế độ ăn uống, sinh hoạt đã được hướng dẫn.
Cộng tác viên dân số xã Tống Phan (Phù Cừ) truyền thông về mất cân bằng giới tính khi sinh cho phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ
Chị Nhung cho biết: Suốt thời gian đó, vợ chồng tôi bị áp lực làm sao để sinh được con trai. Sau bao lần đi siêu âm, uống các loại thuốc can thiệp và áp dụng các chế độ, ăn uống, sinh hoạt tôi cũng mang bầu, sinh được con trai nhưng cũng không ít trường hợp không được như ý muốn. Sau mỗi lần như vậy, những tổn thất về mặt sức khỏe, tinh thần, tiền bạc là những thứ mà người phụ nữ phải gánh chịu nhiều nhất.
Tình trạng MCBGTKS xảy ra ở hầu hết các địa phương và có sự chênh lệch giới tính khi sinh ngay ở lần sinh thứ nhất; mức độ MCBGTKS cao hơn ở những cặp vợ, chồng có trình độ học vấn cao, kinh tế khá giả. Bà Lê Thị Tuyền, quyền Trưởng trạm Y tế xã, cán bộ kiêm nhiệm chuyên trách dân số xã Tống Phan (Phù Cừ) cho biết: Có nhiều nguyên nhân dẫn đến MCBGTKS nhưng nguyên nhân gốc rễ là định kiến giới. Tư tưởng muốn có con trai để nối dõi toong đường đã “ăn sâu, bám rễ” vào tiềm thức của nhiều cá nhân. Bên cạnh đó, sự phát triển của y học hiện đại, hầu hết người dân đều có thể tiếp cận dịch vụ siêu âm, phá thai với mục đích lựa chọn giới tính.
Hậu quả của tình trạng MCBGTKS ở Việt Nam được Quỹ Dân số Liên hợp quốc cảnh báo sẽ trở thành vấn đề nghiêm trọng trong tương lai, ảnh hưởng đáng kể đến cơ cấu giới tính và nhân khẩu học. Dự báo nếu tỉ số giới tính khi sinh vẫn duy trì như ở thời điểm hiện tại không được kiểm soát thì Việt Nam sẽ dư thừa khoảng 1,5 triệu nam giới vào năm 2034 trong độ tuổi 15 - 49 và con số này vào năm 2059 sẽ tăng lên thành 2,5 triệu. Trong tương lai không xa, tỉnh Hưng Yên cũng phải đối mặt với vấn đề thừa nam giới. Tình trạng này khiến cho nhiều nam giới khó có khả năng lấy vợ, nhất là ở nhóm nam giới có nền tảng kinh tế - xã hội thấp, sẽ dẫn tới cấu trúc gia đình bị phá vỡ, người già neo đơn, không nơi nương tựa sẽ gia tăng; nguy cơ thiếu nhân lực trong một số ngành, nghề vốn thích hợp với phụ nữ như: Giáo viên, y tá, may mặc… Gia tăng tỉ số chênh lệch giới tính khi sinh còn làm gia tăng sự bất bình đẳng giới, tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết, tình trạng bạo hành, buôn bán phụ nữ và trẻ em gái, mại dâm...
Bên cạnh đó, để có được con trai, nhiều phụ nữ phải phá thai nhiều lần hoặc cố đẻ thêm con trai gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, tăng thêm chi phí để chăm sóc sức khỏe cho người phụ nữ. Một số dòng họ vẫn duy trì tục lệ chỉ đưa con trai nhập họ, ghi tên trong gia phả, dẫn đến việc người phụ nữ có thể phải chịu áp lực, kỳ thị, phân biệt đối xử, thậm chí bạo lực do sự ưa thích con trai; giá trị, vị thế của người phụ nữ không có con trai bị giảm thấp.
Nhằm đưa tỉ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên, Chi cục Dân số – Kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ) tỉnh đẩy mạnh công tác truyền thông với các nội dung về thực trạng, nguyên nhân và giải pháp giảm thiểu MCBGTKS, hệ lụy MCBGTKS; tuyên truyền về nghiêm cấm việc chẩn đoán, lựa chọn giới tính thai nhi; giáo dục về giới, bình đẳng giới... cho các cặp vợ, chồng trong độ tuổi sinh đẻ, học sinh, sinh viên. Qua các buổi truyền thông ở cơ sở, các phương tiện truyền thông, tờ rơi, tờ gấp, các hội nghị lồng ghép và qua đội ngũ cộng tác viên dân số... đã góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm và hành vi của mỗi cá nhân, gia đình, cộng đồng đối với việc giảm thiểu MCBGTKS.
Tuy nhiên, để giảm thiểu những hệ lụy của MCBGTKS, đòi hỏi sự vào cuộc và chung tay của cả cộng đồng, nhất là các cấp, ngành trong công tác tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức, thái độ và chuyển đổi hành vi của người dân, từng bước xóa bỏ định kiến về giới trong một bộ phận người dân và tăng cường công tác kiểm tra của cơ quan chức năng việc thực hiện quy định về nghiêm cấm lựa chọn giới tính thai nhi đối với các cơ sở y tế...
Hồng Ngọc
Nguồn Hưng Yên : http://baohungyen.vn/mat-can-bang-gioi-tinh-khi-sinh-va-nhung-he-luy-3182175.html