Những thùng ong đặt dưới tán cây trong rẫy cà phê. Ảnh: Lê Hường
Chuẩn bị vào mùa ong đi lấy mật hoa cà phê, từ trước Tết Nguyên đán, người làm nghề nuôi ong đã phải đưa đàn ong đến các chủ vườn, rẫy cà phê xin đặt tổ. Khi những cầu ong óng ánh sắc vàng, căng tràn mật ngọt, người nuôi ong căn cứ vào lượng mật, tính toán ngày thu hoạch. Theo kinh nghiệm, mỗi thùng ong có 7-10 cầu, khoảng 7-10 ngày, cầu ong đầy mật là lúc phải lấy mật để ong làm lứa mật mới.
Gắn bó với ong hơn 30 năm, ông Vũ Hữu Cao, sinh năm 1977, trú tại xã Cư Suê, huyện Cư M'gar hiểu rõ nghề nuôi ong trên cao nguyên đất đỏ. Ông Cao chia sẻ: "Gia đình tôi có 900 đàn ong, đạt sản lượng khoảng 60 tấn mật/năm. Việc nuôi ong đã giúp gia đình tôi ổn định cuộc sống, có thêm kinh phí để lo cho các con ăn học. Nghề nuôi ong đòi hỏi người nuôi phải có sự kiên trì, tỉ mỉ và hiểu biết về đặc tính sinh trưởng, phát triển của ong, cũng như nắm vững quy luật và chu kỳ hoa để ong có thể làm mật theo mùa. Người nuôi ong phải yêu nghề mới có thể làm tốt và gắn bó lâu dài nghề, bởi nghề nuôi ong đối diện với không ít rủi ro. Nếu chẳng may ong hút phải những bông hoa có dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, ong sẽ chết. Người nuôi ong chuyên nghiệp phải lưu ý lựa chọn những khu vực cà phê canh tác an toàn".
Hơn 10 năm nuôi ong, đến nay, anh Đinh Quốc Thanh, ở xã Ea Drông, thị xã Buôn Hồ có khoảng 300 thùng ong, trung bình mỗi năm thu hoạch hơn 15 tấn mật. Anh Thanh chia sẻ: "Để đàn ong khỏe mạnh, năng suất, chất lượng mật cao, người nuôi chăm sóc đàn ong cẩn thận. Thường xuyên kiểm tra, vệ sinh thùng ong đảm bảo thùng ong luôn khô ráo, sạch sẽ để phòng tránh các loại bệnh. Tùy thuộc vào thời tiết để có biện pháp chăm sóc ong phù hợp, trời lạnh thì chống rét, nắng thì chống nóng. Quan trọng nữa là chú ý theo mùa hoa để di chuyển đàn ong đến những vùng có nhiều hoa cho ong lấy mật. Việc nuôi ong không chỉ mang lại giá trị kinh tế cho người làm nghề nuôi ong, mà còn bảo vệ môi trường sinh thái vì ong nhạy cảm với khói bụi, các hóa chất, giúp gia đình tôi nâng cao ý thức trong việc thu gom, xử lý rác, giảm thiểu sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trong sản xuất nông nghiệp. Ngoài ra, ong còn giúp thụ phấn cho hoa, tăng năng suất cây trồng".
Mùa thu hoạch mật cũng là mùa đẹp nhất của vùng đất Tây Nguyên - nơi rừng núi trập trùng, bạt ngàn cà phê bung nở trắng xóa, tạo nên một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ mà dịu dàng, vừa khoáng đạt, vừa thơ mộng. Trong cái nắng nhẹ vàng óng của tháng 3, những đàn ong chăm chỉ vút bay giữa biển hoa, cần mẫn thu nhặt từng giọt mật tinh hoa từ đất trời. Cảnh tượng ấy không chỉ gợi lên vẻ đẹp của sự cần lao, mà còn khiến lòng người như dịu lại giữa nhịp sống hối hả.
Đối với những người nuôi ong nơi đây, mỗi mùa mật là một mùa hy vọng. Họ sống hòa mình với thiên nhiên, gắn bó với từng tổ ong như những người bạn đồng hành thân thiết. Cuộc sống tuy không hào nhoáng, nhưng chất chứa trong đó là niềm vui giản dị, bền bỉ và một tình yêu lớn với nghề. Người nuôi ong thuộc từng mùa hoa, rành từng hướng gió, hiểu được khi nào ong sẽ "ăn mật" nhiều nhất, hay khi nào cần di chuyển đàn ong đi nơi khác để tránh rét, tránh mưa. Mỗi chuyến đi theo đàn ong là một hành trình rong ruổi, lặng lẽ giữa đại ngàn, giữa trời đất rộng lớn, nhưng thấm đẫm tình người và tình quê.
Sau khi mật được thu hoạch, quá trình bảo quản mật ong cũng đòi hỏi sự tỉ mỉ không kém. Mật ong nguyên chất thường được đựng trong các chai thủy tinh sạch, đậy kín để tránh hơi ẩm, ánh sáng và nhiệt độ cao - những yếu tố có thể ảnh hưởng đến chất lượng mật. Mỗi mẻ mật đều được người thợ quan sát kỹ lưỡng: màu sắc phải trong, độ sánh phải đạt, hương thơm phải giữ được nét đặc trưng nguyên bản. Có những người còn thử mật bằng cách nhỏ vài giọt lên lá chuối khô - nếu giọt mật tròn, đặc và không thấm lan thì đó là mật ngon, nguyên chất. Từng chai mật vàng sóng sánh, thơm dịu ấy chính là kết tinh của biết bao công sức, mồ hôi và cả tình yêu thầm lặng dành cho nghề.
Với người dân nơi đây, mật ong không chỉ đơn thuần là sản phẩm nông nghiệp. Nó là biểu tượng của sự gắn bó giữa con người với thiên nhiên, giữa lao động chân chính với thành quả ngọt lành. Một giọt mật vàng sóng sánh là một giọt thời gian, một chút tinh hoa của đất trời và cả một phần tâm huyết của những người thợ ong chân chất, hiền lành, luôn cần mẫn gìn giữ và truyền lại nghề cho các thế hệ mai sau.
Dùng dao cắt sạch sáp thừa trước khi cho vào thùng quay mật. Ảnh: Lê Hường
Chị Nguyễn Thị Minh Tâm, Đội trưởng Đội dịch vụ quay mật Minh Tâm tại huyện Cư M’gar - người có hơn 15 năm gắn bó với nghề quay mật ong, chia sẻ đầy tâm huyết: "Thu hoạch mật ong là một công việc không chỉ đòi hỏi sức khỏe, mà còn yêu cầu người thợ phải thật nhanh tay, nhanh mắt và đặc biệt khéo léo. Mọi thao tác đều phải được thực hiện trong một khoảng thời gian rất ngắn. Nếu quá trình thu hoạch kéo dài, ong sẽ kịp thời hút lại mật đã làm ra, nhộng ong non sẽ bị yếu đi, thậm chí có thể chết vì bị xáo trộn môi trường sống. Điều đó không chỉ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và khả năng sinh sản của đàn ong, mà còn khiến năng suất mật giảm mạnh". Theo chị Tâm, mỗi trại ong thường có hàng chục đến hàng trăm thùng ong và đội quay mật phải hoàn thành toàn bộ công việc trong vòng 4 giờ đồng hồ - một khoảng thời gian ngắn ngủi nhưng đầy áp lực. Đó là thời điểm "vàng" để can thiệp mà không gây tổn hại đến tổ ong, đồng thời bảo đảm thu được lượng mật tối ưu, trước khi đàn ong có cơ hội thay đổi cấu trúc hoạt động.
Theo số liệu từ Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh Đắk Lắk, toàn tỉnh hiện có khoảng 1.500 hộ nuôi ong với quy mô gần 200.000 đàn ong - một con số cho thấy sự phát triển mạnh mẽ và bền vững của nghề nuôi ong tại địa phương. Đắk Lắk, với lợi thế khí hậu nhiệt đới và diện tích rừng trồng cà phê, điều, cao su lớn, là một trong những vùng nuôi ong trọng điểm của cả nước. Sản lượng mật ong hàng năm của tỉnh đạt trên 10.000 tấn, chiếm khoảng 30% tổng sản lượng mật ong toàn quốc. Đây là một đóng góp không nhỏ vào kim ngạch xuất khẩu nông sản, với thị trường tiêu thụ trải rộng khắp các quốc gia phát triển như châu Âu, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc...
Tuy nhiên, bên cạnh những tín hiệu tích cực, ngành nuôi ong xuất khẩu của Đắk Lắk cũng đang phải đối mặt với không ít thách thức. Các thị trường nhập khẩu ngày càng siết chặt quy định về chất lượng, truy xuất nguồn gốc và vệ sinh an toàn thực phẩm. Nhiều lô hàng mật ong đã bị kiểm tra gắt gao về dư lượng kháng sinh, độ ẩm, độ nguyên chất... khiến người nuôi ong phải thay đổi phương pháp chăm sóc, sử dụng chế phẩm sinh học thay cho thuốc hóa học truyền thống. Không chỉ vậy, việc áp dụng mức thuế nhập khẩu cao ở một số quốc gia còn làm giảm tính cạnh tranh của mật ong Việt Nam so với các nước bạn trong khu vực.
Ngoài ra, biến đổi khí hậu - với những thay đổi thất thường của thời tiết, mùa hoa rút ngắn hoặc không nở đúng chu kỳ cũng ảnh hưởng nặng nề đến việc khai thác mật. Những năm gần đây, hạn hán kéo dài, mưa trái mùa xuất hiện nhiều hơn, khiến ong khó khăn trong việc tìm nguồn hoa ổn định. Điều này dẫn đến sản lượng mật giảm rõ rệt, trong khi chi phí duy trì đàn ong lại tăng cao. Trước tình hình đó, người nuôi ong buộc phải thích nghi bằng cách thay đổi lịch di chuyển đàn ong, đầu tư thêm vào thiết bị bảo vệ tổ ong và học hỏi các mô hình nuôi ong bền vững, thân thiện với môi trường.
Nghề nuôi ong, quay mật vốn dĩ không ồn ào, không hoa mỹ, nhưng lại ẩn chứa trong đó một giá trị bền vững, lâu dài. Đó là sự kết nối giữa con người và thiên nhiên, giữa trí tuệ và lao động cần cù. Mỗi giọt mật thu được là thành quả của cả một quá trình thầm lặng, đòi hỏi sự nhẫn nại, lòng đam mê và cả niềm tự hào của những người thợ ong chân chất nơi đại ngàn Đắk Lắk.
Lê Hường