Mùa thu tháng Tám

Mùa thu tháng Tám
5 giờ trướcBài gốc
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc. Ảnh: TƯ LIỆU
Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc
Không phải đến khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945 thì khái niệm “Độc lập, Tự do” mới được biết đến. Độc lập là niềm khao khát bao đời mà dân tộc Việt Nam đã không tiếc máu xương đánh đổi. Gần một nghìn năm sống dưới ách đô hộ của phong kiến phương Bắc, là cũng chừng ấy thời gian người Việt Nam đấu tranh bền bỉ giành quyền sống cho mình.
Gần trăm năm đô hộ của giặc Tây, cả dân tộc phải sống trong cảnh tận cùng của sự thống khổ, những chiến thắng lẫy lừng như Chi Lăng, Bạch Đằng, Đống Đa... mãi mãi là bài học vô giá để người dân Việt Nam hiểu thế nào là giá trị của độc lập, tự do, để người thanh niên Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc quyết định dấn thân đi tìm đường cứu nước.
"
Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
Chủ tịch HỒ CHÍ MINH
Gần 10 năm bôn ba khắp trời Âu, mùa thu năm 1920, trên đất Pháp, lần đầu tiên Nguyễn Ái Quốc tiếp cận với Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin và nhận ra, đây chính là “con đường giải phóng cho đồng bào bị đọa đày đau khổ” của mình. Lựa chọn con đường đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và tin tưởng vào con đường cách mạng vô sản là sự lựa chọn của lịch sử mà Nguyễn Ái Quốc là đại diện tiêu biểu nhất.
Sự lựa chọn lịch sử ấy là bước khởi đầu để 10 năm sau, dưới sự lãnh đạo của Người, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, gánh vác sứ mệnh to lớn là lãnh đạo toàn dân tộc đấu tranh giành độc lập. Mùa thu năm 1945 đã trở thành mùa thu lịch sử ghi dấu bản anh hùng ca chói lọi của dân tộc Việt Nam trên hành trình đầy gian khổ, hy sinh đòi quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc cho mình.
Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, chỉ với vài nghìn đảng viên sau 15 năm thành lập, rèn luyện, trưởng thành qua máu lửa đấu tranh, Đảng ta đã lãnh đạo 20 triệu đồng bào cả nước vùng lên khởi nghĩa, giành chính quyền về tay nhân dân. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công giữa “Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình”.
Chiều 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân đồng bào và toàn thế giới về một “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập”. Đồng thời khẳng định “toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Nhớ về mùa thu 80 năm trước là nhớ về Bác Hồ, là nhớ về thời khắc thiêng liêng của dân tộc, để hiểu rằng, nếu không có những quyết định mang tính lịch sử của người cầm lái con thuyền cách mạng; nếu không có tinh thần quyết tâm, ý chí sắt đá “dù có đốt cháy cả dải Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập” của Người, thì chúng ta đã bỏ lỡ một thời cơ nghìn năm có một. Cách mạng Tháng Tám thành công là thành quả được đánh đổi từ máu xương của bao đảng viên cộng sản kiên trung, của hàng vạn đồng bào ta từ Xô Viết - Nghệ Tĩnh, từ Bắc Sơn, Đô Lương, Nam Kỳ vun đắp lại. Để rồi, như một chân lý của thời đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói thay hàng triệu triệu trái tim yêu chuộng hòa bình: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
Lẽ sống cao đẹp
Độc lập cho dân tộc là lý tưởng chiến đấu, là lẽ sống, là hệ giá trị cao cả của thời đại mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành trọn đời mình phấn đấu và cống hiến đến hơi thở cuối cùng. Đúng như Chủ tịch Cuba Fidel Castro - người bạn, người đồng chí thân thiết của Bác đã viết: “Hồ Chí Minh thuộc lớp người đặc biệt mà cái chết đã gieo mầm cho sự sống và là nguồn cổ vũ đời đời bất diệt”. Còn giáo sư người Nhật Singô Sibata thì nhận xét: “Cống hiến nổi tiếng của cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ Người đã phát triển quyền lợi của con người thành quyền lợi của dân tộc. Như vậy tất cả mọi dân tộc đều có quyền tự quyết định lấy vận mệnh của mình”.
Tự do chính là quyền lựa chọn của con người. Vì thế mà trải qua các cuộc kháng chiến, hàng triệu người con đất Việt đã lựa chọn hy sinh về phần mình để giành lấy độc lập, tự do cho dân tộc. Một sự lựa chọn phải đánh đổi bằng máu xương, bằng nước mắt đợi chờ của biết bao người vợ trẻ, của bao mẹ già mỏi mòn “chờ con bên cối gạo canh khuya”... Đó là sự lựa chọn mang tính định mệnh, nhưng là tự nguyện. Tất cả chỉ để chứng minh rằng: Quyền lựa chọn của dân tộc, quyền tự do của người Việt Nam là thứ quyền mà không một thế lực nào có thể áp đặt.
Tám mươi năm sau Cách mạng Tháng Tám, nước ta giờ đã “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như ước nguyện của Bác Hồ. Những giá trị của độc lập, tự do và tinh thần dân chủ mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra ngày ấy không ngừng được mở rộng, khi các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đã được hình thành trên cơ sở ý chí của đại đa số người dân, vì mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Trên con đường phát triển, chúng ta có thể hợp tác, học hỏi bạn bè, nhưng không thể bị ai ra lệnh, càng không thể để ai ép buộc. Bởi độc lập, trước hết là độc lập trong tư duy, độc lập trong việc hoạch định con đường đi tới tương lai của dân tộc mình.
Nhớ về mùa thu cách mạng 80 năm trước, chúng ta càng trân trọng, biết ơn ước vọng cao cả của Bác Hồ về một Việt Nam độc lập, tự do, dân chủ, công bằng. Đất nước càng phát triển, càng văn minh, càng cần phải thực hiện công bằng xã hội. Đó là đảm bảo quyền bình đẳng của công dân, mà trước hết và quan trọng nhất là bình đẳng trước pháp luật. Thứ nữa là bình đẳng về cơ hội cống hiến và nghĩa vụ công dân. Cơ hội chỉ trở thành hiện thực khi mỗi người tùy theo điều kiện cụ thể của mình, hoàn thành trách nhiệm công dân.
Không phải ai cũng thành giáo sư, tiến sĩ, nhưng không người Việt Nam nào bị cấm học hành; không phải ai cũng trở thành tỷ phú, nhưng cơ hội làm giàu là của mọi công dân, được pháp luật bảo hộ. Sự bình đẳng trước pháp luật và cơ hội cống hiến của công dân là lực lượng sáng tạo to lớn để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới. Biến ước vọng thành hiện thực là điều không hề dễ dàng. Đoàn kết trên dưới một lòng luôn là bài học nhiều ý nghĩa của mọi dân tộc trên con đường đi tới.
NGUYỄN VÂN THIÊNG
Nguồn Quảng Ngãi : https://baoquangngai.vn/mua-thu-thang-tam-56384.htm