Câu lạc bộ hát Then, đàn tính, Trung tâm Văn hóa-Du lịch tỉnh Đắk Lắk tích cực hoạt động, góp phần tạo nên bức tranh văn hóa đặc sắc của tiếng đàn tính, điệu hát Then. Ảnh: Lộc Thị Liên
Âm vang Bắc - Nam trong tiếng đàn tính nơi đại ngàn
Một đêm đầu tháng 8 lịch sử, trời Tây Nguyên mát lạnh, sương chưa xuống nhưng không khí đã thấm đẫm mùi đất rừng sau cơn mưa. Ở sân Đồn Biên phòng Yok Đôn, BĐBP tỉnh Đắk Lắk, buổi giao lưu văn hóa giữa bà con các dân tộc Tây Nguyên và những hộ dân kinh tế mới đến từ miền Bắc diễn ra trong không khí ấm cúng, rộn ràng. Giữa vòng xoang rực lửa, trong những tiết mục đàn đá, cồng chiêng vốn rất đặc trưng của Tây Nguyên, bỗng vang lên tiếng đàn tính với âm thanh vừa lạ, vừa thân thuộc. Cây đàn ba dây nhỏ nhắn nằm gọn trong tay người nghệ sĩ đến từ Lạng Sơn, Cao Bằng ngân lên những khúc Then cổ với nhịp đều đặn, thiết tha.
Người chơi đàn tính hôm ấy là bà Lương Thị Mão, trú tại xã Ea Wer, một trong những người di cư đầu tiên từ Cao Bằng vào Đắk Lắk lập nghiệp. Bà bảo, mang theo đàn tính vào Tây Nguyên cũng giống như mang theo một phần hồn cốt của quê hương. “Đàn tính là nhạc cụ truyền thống gắn liền với điệu hát Then của các dân tộc Tày, Nùng, Thái vùng núi phía Bắc và là di sản văn hóa phi vật thể đã được UNESCO công nhận. Đàn có hình dáng mảnh mai, thân dài, cần đàn uốn cong, thân đàn làm từ quả bầu khô. Âm thanh của đàn tính không vang lớn, nhưng ngọt ngào, dìu dặt, như lời ru giữa đêm khuya. Loại đàn này thường được sử dụng trong nghi lễ tâm linh, các lễ hội, hoặc sinh hoạt văn nghệ cộng đồng. Mỗi lần gảy đàn là tôi thấy như đang ngồi trước gác bếp nhà sàn ở quê nhà Pác Bó, nghe mẹ hát Then... Giờ giữa Tây Nguyên này, tiếng đàn không chỉ cho tôi, mà còn cho cả những người con xa quê và cho những người bạn mới ở vùng đất mới” - bà Mão xúc động nói.
Việc tiếng đàn tính vang lên ở vùng biên giới Tây Nguyên là một điều không phải ai cũng nghĩ đến. Thế nhưng, cùng với dòng người từ các tỉnh phía Bắc đi xây dựng kinh tế mới, nhiều giá trị văn hóa, trong đó có âm nhạc truyền thống cũng theo bước chân di dân len lỏi đến những vùng đất mới. Từ các bản làng Tày ở Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, cây đàn tính theo những người nông dân vượt hàng nghìn cây số vào Đắk Lắk, Gia Lai, Lâm Đồng, Quảng Ngãi. Ban đầu, tiếng đàn chỉ vang lên trong những mái nhà tạm, trong hội đồng hương mùa xuân. Rồi theo thời gian, nó được mang đến các buổi giao lưu, hòa vào các hội diễn, ngày hội đại đoàn kết... và cuối cùng, dần trở thành một mảnh ghép mới trong bức tranh văn hóa vùng biên.
Một điều thú vị là, dù không phải nhạc cụ gốc của Tây Nguyên, nhưng tiếng đàn tính vẫn được đón nhận nồng nhiệt bởi cộng đồng nơi đây. Đặc biệt, trong các chương trình văn nghệ do các đồn Biên phòng phối hợp với địa phương tổ chức, tiếng đàn tính thường xuất hiện bên cạnh cồng chiêng, đàn T’rưng, nhịp trống Paranưng của người Chăm, hay điệu múa xoang của người Ba Na. Âm vang của tiếng đàn tính thanh tao và làn điệu Then đằm thắm, trữ tình ngày càng được nhiều người biết đến hơn khi hiện diện trong các hội diễn văn nghệ, ngày hội các dân tộc thiểu số, trong các đợt hội diễn văn hóa quần chúng, bà con các dân tộc Kinh, Tày, Nùng đã mạnh dạn mang bản sắc của mình ra giới thiệu. Qua đó, đã cho thấy có sự giao lưu rất lành mạnh. Những giá trị văn hóa không hề mâu thuẫn, mà lại bổ sung, làm phong phú thêm đời sống tinh thần nơi biên giới. Đặc biệt, nhiều nghệ nhân người Ê Đê, Ba Na sau khi nghe tiếng đàn tính cũng tỏ ra thích thú. Có người học thử cách gảy đàn, có người còn thử phổ lời dân ca Tây Nguyên trên nền tiếng tính tẩu. Những cuộc gặp gỡ ấy, dù ngẫu hứng, lại là minh chứng sống động cho sức mạnh gắn kết cộng đồng của âm nhạc dân gian.
Các thành viên của Câu lạc bộ hát Then, đàn tính thường xuyên luyện tập để biểu diễn trong các hội diễn văn nghệ, hay các dịp lễ hội tại địa phương. Ảnh: Nông Thị Hòa
Giữ tiếng đàn giữa gió rừng Tây Nguyên
Ở Tây Nguyên, nơi có hàng chục đồn Biên phòng đóng quân và hàng trăm điểm dân cư, biên giới là điểm gặp gỡ, giao lưu giữa các dân tộc, giữa văn hóa truyền thống với hiện đại, giữa âm nhạc của núi rừng Đông Bắc với thanh âm đại ngàn Tây Nguyên.
Tiếng đàn tính vang lên trên vùng biên không chỉ mang theo hoài niệm, mà còn truyền đi thông điệp về sự giao hòa. Sự xuất hiện của tiếng đàn tính nơi đây nhắc nhở chúng ta rằng: Các giá trị văn hóa không đứng yên mà chúng luôn vận động, chuyển dịch và khi được trân trọng, chúng sẽ không bao giờ biến mất, mà sẽ sinh sôi, nảy nở trên những mảnh đất mới. Như bà Lương Thị Mão chia sẻ: “Không cần ai phải giống ai, mỗi dân tộc có cái hay riêng. Nhưng khi biết quý trọng nhau, biết chia sẻ nét đẹp của mình cho người khác thì vùng biên này sẽ không còn khoảng cách, chỉ còn tình thân và tiếng hát”.
Hiện nay, một số câu lạc bộ văn nghệ đồng hương Tày - Nùng tại các xã biên giới giữa đại ngàn Tây Nguyên đã hình thành và sinh hoạt đều đặn. Trong đó, đàn tính là một nhạc cụ không thể thiếu. Bên cạnh đó, những người cao tuổi như bà Lương Thị Mão, Bùi Thị Lộc đã dốc hết tâm huyết, công sức để gìn giữ, phát huy văn hóa dân tộc mình ở mảnh đất Tây Nguyên vốn đa sắc màu văn hóa, góp phần tạo nên một bức tranh sinh động, phong phú, song vẫn giữ được hồn quê, cái riêng, nét đặc sắc không thể nhầm lẫn được của tiếng đàn tính, điệu hát Then. Những người phụ nữ Tày, Nùng chân chất, cần mẫn, chăm lo lao động, trong gian khó buổi đầu lập nghiệp vẫn luôn giữ được nét lạc quan, yêu đời, cùng nhau tập họp lại, tự bỏ kinh phí, đầu tư trang phục truyền thống, thường xuyên luyện tập, chỉ dẫn cho nhau những kỹ thuật khó, bài hát hay. Ngoài ra, Đoàn Thanh niên và Hội Phụ nữ ở các xã đã phối hợp chặt chẽ với các đồn Biên phòng hỗ trợ tổ chức các lớp dạy đàn miễn phí, tạo sân chơi để thế hệ trẻ dù không sinh ra ở miền núi phía Bắc vẫn có cơ hội học và yêu tiếng tính tẩu.
Tình yêu với cây đàn tính, làn điệu Then của các bà, mẹ, chị đã truyền lửa cho các thế hệ con cháu. Xã Ea Wer duy trì được lớp dạy đánh đàn tính, hát Then cho các em, các cháu ở lứa tuổi từ 12 - 15. Những ngày hè rảnh rỗi, khi nghỉ học, các mẹ các chị lại đến từng nhà, vận động các cháu tham gia học đàn vào ban đêm. Công sức họ bỏ ra được đền đáp xứng đáng khi các cháu theo học đến nay đều biết kỹ thuật gảy đàn cơ bản, hát những bài Then phổ biến. Nhiều cháu như Hứa Thị Tú, Hứa Thị Thảo, Nguyễn Ngọc Trình... còn tự tin trình diễn, tham dự các liên hoan văn nghệ do ngành văn hóa địa phương và tỉnh tổ chức và đạt giải cao. Cũng có những nghệ sĩ dân gian đã thử kết hợp đàn tính với nhạc cụ Tây Nguyên trong các tiết mục múa dân tộc, hoặc cải biên khúc Then để phù hợp với không khí của lễ hội bản làng Tây Nguyên. Những sáng tạo ấy giúp nhạc cụ truyền thống tiếp tục sống động, tiếp tục nói lời của hiện tại.
Tiếng đàn tính trên biên giới Tây Nguyên đang dần trở thành một biểu tượng đẹp cho dòng chảy văn hóa Việt Nam, đa dạng nhưng thống nhất, khác biệt nhưng không tách rời. Trong tiếng đàn ấy có nỗi nhớ quê, có khát vọng hội nhập, có sự tôn trọng lẫn nhau giữa các dân tộc anh em và có cả niềm tin rằng, âm nhạc không chỉ là một âm thanh, mà còn là lời khẳng định: Văn hóa không biên giới, chỉ có lòng người rộng mở.
Việt Bắc