Nền tảng để Việt Nam vươn mình

Nền tảng để Việt Nam vươn mình
6 giờ trướcBài gốc
Những bước đi hợp lý
Chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo và phát triển khoa học, công nghệ là trụ cột chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững quốc gia. Việt Nam đang xây dựng nền tảng phát triển dựa trên tri thức, dữ liệu và công nghệ, từ cải cách giáo dục, tinh gọn bộ máy hành chính, đến chính phủ số và kinh tế số.
Dự thảo Báo cáo tổng kết 40 năm đổi mới, do Ban Chỉ đạo Trung ương công bố năm 2025, khẳng định phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là khâu đột phá nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đồng thời, gắn kết đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, góp phần hiện đại hóa quản trị quốc gia và thúc đẩy phát triển.
Trong những năm gần đây, việc triển khai chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ số đã trở thành yêu cầu chiến lược, then chốt, kết hợp cải cách hành chính, sắp xếp bộ máy và xây dựng chính quyền địa phương 2 cấp. Những bước đi này không chỉ giúp tinh gọn cơ cấu, mà còn tạo nền tảng vững chắc cho xây dựng chính phủ số, kinh tế số và xã hội số vận hành đồng bộ, hiện đại và hiệu quả, nâng cao năng lực quản trị và chất lượng phục vụ người dân.
Sở KH&CN ký kết hợp tác phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số với các đơn vị. Ảnh: TƯ LIỆU
Khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số được xác định là trụ cột chiến lược quốc gia. Thực tiễn cho thấy, hệ thống nghiên cứu quốc gia vẫn tồn tại những điểm nghẽn về cấu trúc đáng kể.
Dữ liệu khoa học còn rời rạc, nền tảng số chưa tích hợp, cơ chế hành chính nhiều tầng nấc trung gian khiến chi phí vận hành cao và năng lực đổi mới sáng tạo chưa phát huy hết, dù kinh tế số đã đóng góp khoảng 18,3% GDP, tỷ lệ phủ sóng băng rộng tại các xã đạt 99,3%, và Việt Nam xếp hạng 44/133 quốc gia trong GII 2024.
Tỷ lệ chi cho R&D khoảng 0,4% GDP, với gần 768 nhà nghiên cứu FTE trên 1 triệu dân và hơn 156 nghìn đơn đăng ký sở hữu công nghiệp, phản ánh tiềm năng còn lớn nhưng chưa được khai thác triệt để.
Từ năm 2013 đến nay, Việt Nam đã triển khai chuỗi cải cách chiến lược, từ giáo dục, đào tạo, chuyển đổi số, đến phát triển Chính phủ điện tử và thực hiện cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Chuỗi cải cách này không rời rạc mà là sự kết nối và tích hợp chặt chẽ các trụ cột tri thức - công nghệ - đổi mới sáng tạo, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Theo đó, mỗi cải cách cần đặt trong tổng thể, tránh phân mảnh và trùng lặp, vừa thúc đẩy sáng tạo, vừa củng cố bộ máy quản trị.
Kinh nghiệm cho thấy, các biện pháp hành chính mang tính hình thức hay khẩu hiệu đơn lẻ khó tạo tác động thực chất. Cải cách chỉ hiệu quả khi có nền tảng chiến lược vững chắc, đồng bộ và trọng tâm, ngăn ngừa dàn trải, định hướng rõ ưu tiên và tạo điều kiện để khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số tương tác trong hệ sinh thái chính sách, từ đó tạo kết quả bền vững.
Thực hiện đồng bộ các giải pháp
Trên cơ sở quan sát và tham chiếu kinh nghiệm quốc tế, để triển khai thành công các mục tiêu chiến lược nêu trên, cần nghiên cứu bốn nhóm giải pháp trọng tâm: Đó là, tái cấu trúc hệ thống khoa học, công nghệ; trong đó ưu tiên các lĩnh vực trọng điểm, phát triển có chọn lọc; xây dựng các trung tâm nghiên cứu lớn, viện, trường đại học và khu công nghệ cao chiến lược. Phân bổ nguồn lực tập trung vào công nghệ lõi, nền tảng và lĩnh vực then chốt, đảm bảo tự chủ quốc gia, thúc đẩy doanh nghiệp công nghệ, nâng cao tỷ trọng kinh tế số và củng cố năng lực cạnh tranh bền vững.
Cải cách hành chính và tái cơ cấu bộ máy nhà nước gắn chặt với chuyển đổi số như một chiến lược đồng bộ. Tinh gọn bộ máy, thực hiện hiệu quả mô hình chính quyền địa phương 2 cấp. Số hóa hồ sơ, tự động hóa quy trình và chia sẻ dữ liệu nhằm rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục hành chính. Củng cố kỷ luật công vụ, nâng cao hiệu lực quản lý và minh bạch trong ra quyết định.
Hạ tầng số và hệ thống dữ liệu quốc gia cần liên thông. Các cơ sở dữ dữ liệu trọng yếu như dân cư, đất đai, tài chính, doanh nghiệp, bảo hiểm, y tế, giáo dục cần được kết nối, tích hợp và vận hành theo nguyên tắc “khai báo một lần, sử dụng suốt đời”. Đồng thời, đảm bảo chủ quyền số quốc gia và hạn chế phụ thuộc vào công nghệ nước ngoài.
Phát triển nguồn nhân lực số chất lượng cao và đội ngũ chuyên gia tinh hoa, đào tạo dài hạn, xây dựng môi trường nghiên cứu minh bạch và cơ chế đãi ngộ đặc thù nhằm tạo động lực đổi mới sáng tạo, nâng cao khả năng làm chủ công nghệ lõi và củng cố năng lực cạnh tranh bền vững.
Những định hướng chiến lược nêu trên cần được nghiên cứu, tích hợp và xác lập trong các quyết định và chương trình hành động của Chính phủ. Để trở thành sức mạnh thực tế, các cải cách cần được triển khai với tinh thần kỷ luật cao, tập trung, tránh nửa vời hoặc hình thức.
Khi ba trụ cột chiến lược khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số kết hợp hài hòa và hợp lý với cải cách thể chế, Việt Nam sẽ có cơ hội xây dựng kinh tế số mạnh, xã hội số toàn diện và chính phủ số phục vụ công dân số năng động, đồng thời hiện thực hóa tự cường quốc gia trong kỷ nguyên số.
Từ góc nhìn xã hội học và chính sách công, việc triển khai đột phá khoa học, công nghệ và chuyển đổi số nhằm xây dựng chính phủ số, kinh tế số và xã hội số không chỉ là cải cách kỹ thuật hay hành chính, mà là nỗ lực hệ thống nhằm củng cố năng lực quốc gia, khai thác tri thức và thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Trong quá trình này, dữ liệu đóng vai trò trụ cột trung tâm, tạo nền tảng cho tự cường quốc gia, nâng cao khả năng thích ứng và năng lực cạnh tranh bền vững trong kỷ nguyên số.
TS NGUYỄN QUANG GIẢI
Nguồn Quảng Ngãi : https://baoquangngai.vn/nen-tang-de-viet-nam-vuon-minh-65500.htm