'Nền tự do và độc lập' trong bản Tuyên ngôn Độc lập 2/9

'Nền tự do và độc lập' trong bản Tuyên ngôn Độc lập 2/9
3 giờ trướcBài gốc
Học viện Chính trị sáng nay tổ chức hội thảo khoa học "Tuyên ngôn Độc lập giá trị lịch sử và tầm vóc thời đại". Hội thảo nằm trong chuỗi các hoạt động tuyên truyền kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9.
Trung tướng Đặng Sỹ Lộc, Giám đốc Học viện Chính trị, nêu rõ, cách đây 80 năm, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời, trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.
Trung tướng Đặng Sỹ Lộc
Người đã tuyên bố đanh thép với toàn thế giới và quốc dân đồng bào rằng: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”.
Trung tướng Đặng Sỹ Lộc nhấn mạnh, với hơn 1.000 từ, bản Tuyên ngôn Độc lập là văn kiện lịch sử đặc biệt, văn bản chính trị - pháp lý đầu tiên trong hệ thống văn kiện chính trị - pháp lý của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước CHXHCN Việt Nam.
Bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 được coi là bản tuyên ngôn thứ ba trong lịch sử về quyền tự chủ của dân tộc Việt Nam sau bài thơ thần Nam Quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt năm 1077 và Đại Cáo Bình Ngô của Nguyễn Trãi năm 1428.
Theo Trung tướng Đặng Sỹ Lộc, nếu như hai bản tuyên ngôn trước khẳng định quyền tự chủ của dân tộc Việt Nam với vương triều phong kiến láng giềng phương Bắc “Nam quốc sơn hà, Nam đế cư” thì bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 đã vượt ra khỏi giới hạn đó, khẳng định với toàn thể thế giới rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập”...
Đây là dấu mốc bước ngoặt trong lịch sử dân tộc, mở ra kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam. Tuyên ngôn Độc lập đã trở thành bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.
Quảng trường Ba Đình những ngày chuẩn bị kỷ niệm 80 năm Quốc khánh. Ảnh: Đức Anh
Thiếu tướng Nguyễn Bá Hùng, Chính ủy Học viện Chính trị, nhận định, bản Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện lịch sử, một văn bản pháp lý quan trọng bậc nhất của nước ta. Văn kiện pháp lý này thay thế cho tất cả văn kiện pháp lý của các chế độ cũ trước đó, bằng những lý lẽ đanh thép đã làm rõ những cơ sở pháp lý của nền độc lập của dân tộc, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc Việt Nam.
Ngoài ra còn khẳng định ý chí sắt đá không gì lay chuyển nổi và đồng thời là triết lý nhân sinh vĩnh hằng của dân tộc Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh phát hiện, khẳng định: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
Chính ủy Học viện Chính trị cho rằng, bản tuyên ngôn thể hiện tinh thần và ý chí của một dân tộc dù bị áp bức, bóc lột đến cùng cực, đã gan góc, kiên cường đấu tranh để quyết giành bằng được quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.
Trong những lời văn bất hủ đã đi vào lịch sử, bản tuyên ngôn đã thể hiện quyết tâm sắt đá của toàn thể dân tộc Việt Nam quyết bảo vệ thành quả cách mạng là “nền tự do và độc lập”.
Thiếu tướng Nguyễn Bá Hùng nêu rõ, Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa vượt thời đại, khi những tư tưởng, quan điểm của Người đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Đó là sự thống nhất biện chứng giữa quyền độc lập dân tộc và quyền sống của mỗi con người. Đó là sự thể hiện giữa khát vọng sống trong hòa bình, tự do, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào vẫn thường trực ý chí “đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy” mà biết bao thế hệ cha anh đã chiến đấu, hy sinh để giành được từ cuộc cách mạng mùa Thu 80 năm trước.
Thiếu tướng Nguyễn Bá Hùng
Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, vấn đề độc lập, chủ quyền mà Tuyên ngôn Độc lập đã đề cập vẫn có ý nghĩa đặc biệt sâu sắc. Tuyên ngôn Độc lập đã thức tỉnh, lay động, cổ vũ tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, khẳng định tính chính nghĩa của cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc...
Kỷ nguyên độc lập được mở ra với dân tộc Việt Nam
Đại tá Nguyễn Văn Trường, Chủ nhiệm Khoa Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện Chính trị, cho biết, sau ngày khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi, lãnh tụ Hồ Chí Minh rời Tân Trào (Tuyên Quang) về Hà Nội. Người ở và làm việc tại tầng 2, số nhà 48 phố Hàng Ngang, trụ sở của hãng buôn lụa Phúc Lợi. Chủ nhà là ông bà Trịnh Văn Bô và Hoàng Thị Minh Hồ - là thương gia lớn và cũng là cơ sở cách mạng.
Chiều 26/8/1945, Bác triệu tập và chủ tọa phiên họp của Ban Thường vụ Trung ương Đảng để bàn những nhiệm vụ cấp bách của chính quyền cách mạng lâm thời.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhất trí với chủ trương của Ban Thường vụ mở rộng thành phần Ủy ban giải phóng dân tộc và sớm công bố danh sách của Ủy ban cho toàn dân biết, chuẩn bị bản Tuyên ngôn Độc lập và tổ chức cuộc mít tinh lớn ở Hà Nội để Ủy ban giải phóng dân tộc ra mắt nhân dân. Ngày ra mắt của Ủy ban cũng là ngày Việt Nam tuyên bố thành lập chính thể dân chủ cộng hòa.
Một ngày sau, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp các vị bộ trưởng trong Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Danh sách Chính phủ gồm 15 thành viên do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu được công bố trên các tờ báo ở Hà Nội.
Từ ngày 28/8/1945, ngay trên gác hai nhà số 48 phố Hàng Ngang, Chủ tịch Hồ Chí Minh tập trung trí lực và tình cảm soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập.
Đại tá Nguyễn Văn Trường khẳng định, bản tuyên ngôn đã tuyên bố chính thức một chính quyền cách mạng mới của nhân dân Việt Nam được xây dựng và sẽ trưởng thành theo đúng ý nguyện của mọi tầng lớp nhân dân và của cả quốc gia, dân tộc Việt Nam. Kể từ thời khắc đó, kỷ nguyên độc lập được mở ra với dân tộc Việt Nam với đầy đủ quyền độc lập về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội và sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Trần Thường
Nguồn VietnamNet : https://vietnamnet.vn/nen-tu-do-va-doc-lap-trong-ban-tuyen-ngon-doc-lap-2-9-2434690.html