Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, long trọng tuyên bố trước hàng chục vạn người dân tham dự Lễ Độc lập, trước đồng bào cả nước, nhân dân thế giới sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Với những giá trị cốt lõi về quyền dân tộc và quyền con người, bản Tuyên ngôn Độc lập là sự kết tinh cao cả những giá trị nhân văn của nhân loại. Vượt qua thời gian, văn kiện lịch sử này vẫn có sức sống mạnh mẽ, vẹn nguyên ý nghĩa trong thời đại ngày nay.
--------------------
Quá trình lãnh tụ Hồ Chí Minh viết Tuyên ngôn Độc lập
Theo nghiên cứu của chúng tôi, khi quyết định rời bến Nhà Rồng, Sài Gòn ngày 5/6/1911 ra đi tìm đường cứu nước, người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã hình thành trong suy nghĩ về nơi đến để tìm hiểu, học hỏi. Sau một thời gian lưu lại Pháp, đến năm 1912, Người đã đến Mỹ để tìm hiểu về cuộc chiến tranh giành độc lập của Mỹ và bản Tuyên ngôn Độc lập do Thomas Jefferson viết năm 1776. Sau đó, từ năm 1913 đến cuối năm 1917, Người sống ở Anh và cũng dành thời gian để tìm hiểu về cuộc cách mạng tư sản nổ ra từ rất sớm năm 1640 tại đất nước này. Từ Anh, Người trở lại Pháp, quê hương của cuộc cách mạng tư sản năm 1789 và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền nổi tiếng.
Sau 30 năm bôn ba qua nhiều nước đi tìm và tìm thấy con đường cứu nước cho dân tộc, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã trở về Việt Nam đầu năm 1941 để cùng với Đảng Cộng sản Việt Nam (do Người sáng lập đầu năm 1930) lãnh đạo tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân chuẩn bị các điều kiện cần thiết: Xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, căn cứ địa cho việc khởi nghĩa giành chính quyền khi thời cơ tới. Bên cạnh tập trung xây dựng thực lực cách mạng, Người tìm cách liên hệ với các lực lượng trong phe Đồng minh chống phát-xít để phối hợp đánh quân Nhật.
Bến cảng Nhà Rồng - nơi Nguyễn Tất Thành ra đi bắt đầu hành trình tìm đường cứu nước. (Ảnh: TTXVN)
Chàng trai Nguyễn Tất Thành làm phụ bếp ở khách sạn Carlton nước Anh năm 1913. (Ảnh tư liệu/TTXVN)
Khách sạn Carlton, Anh - nơi người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành làm việc trong thời gian ở Anh. (Ảnh tư liệu/TTXVN)
Thẻ căn cước của Nguyễn Ái Quốc ở Paris, Pháp năm 1919. (Ảnh tư liệu/TTXVN)
Sau chuyến đi đầu tiên không thành (từ 8/1942-9/1944), cuối năm 1944 đầu năm 1945, Người lại chủ động dẫn một viên phi công Mỹ là William Show (được Mặt trận Việt Minh cứu giúp khi nhảy dù khỏi chiếc máy bay bị rơi ở Cao Bằng) sang Côn Minh, Trung Quốc trao trả cho phía Mỹ. Ngày 29/3/1945, Lãnh tụ Hồ Chí Minh đã gặp tướng Claire Chennault, Chỉ huy Không đoàn 14 (còn gọi là Cọp bay) của Mỹ. Hai bên đã thỏa thuận các nội dung hợp tác, phối hợp cụ thể.
Phía Mỹ đã cử hai nhân viên của Cơ quan Dịch vụ chiến lược (OSS) đi theo Người về Cao Bằng để thông báo kịp thời các tin tức tình báo về quân Nhật (do Việt Minh cung cấp) cho máy bay Mỹ. Việc hợp tác giữa hai bên diễn ra cụ thể và hiệu quả. Cuối tháng 5/1945, Lãnh tụ Hồ Chí Minh đề nghị phía Mỹ cung cấp cho Người bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ. Đồng thời, Người cũng dành thời gian tìm đọc Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp.
Cuộc khởi nghĩa nổ ra ở Hà Nội ngày 19/8/1945 và giành thắng lợi.
Cuộc khởi nghĩa nổ ra ở Hà Nội ngày 19/8/1945 và giành thắng lợi.
Tối 25/8, mặc dù còn đang yếu mệt sau một đợt ốm nặng, Người đã cùng các đồng chí trong Ban Thường vụ Trung ương Đảng về số 48 phố Hàng Ngang, Hà Nội. Tại đây, trong muôn vàn công việc phải giải quyết trong và sau tổng khởi nghĩa như nắm tình hình và chỉ đạo các địa phương, cải tổ Ủy ban dân tộc giải phóng thành Chính phủ lâm thời, công bố danh sách trên báo chí, chỉ đạo các công việc chuẩn bị cho ngày Lễ tuyên bố Độc lập...
Người đã dành thời gian suy nghĩ về những nội dung cần thiết mà Người đã nghiền ngẫm từ lâu để thể hiện trong Tuyên ngôn Độc lập. Bản thảo Tuyên ngôn Độc lập được Người hoàn thành trong một thời gian ngắn và được đưa ra Ban Thường vụ Trung ương đọc, góp ý ngày 29/8. Sáng ngày 30/8, Người mời Thiếu tá Patty, phụ trách bộ phận OSS của Mỹ đến và đọc cho ông ta nghe đoạn mở đầu trong Tuyên ngôn Độc lập... Những sự việc nêu trên thể hiện sự nghiêm túc, cẩn trọng và dân chủ của Người đối với Văn kiện lịch sử quan trọng nhất của đất nước trước khi công bố chiều ngày 2/9/1945.
Những nội dung cốt lõi và ý nghĩa của Tuyên ngôn Độc lập
Trước hết Tuyên ngôn Độc lập đã khẳng định quyền con người và quyền dân tộc. Hai quyền này luôn gắn kết chặt chẽ với nhau. Đó cũng là mục tiêu, lý tưởng mà mọi dân tộc, quốc gia trên thế giới đều hướng đến. Bằng việc luận dẫn nội dung mở đầu trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1791: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng một cách có chủ ý những nội dung về quyền con người trong Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ - một nước có ảnh hưởng lớn trên thế giới và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp - nước đã từng xâm lược và thống trị Việt Nam hơn 80 năm, để lưu ý những người đứng đầu của hai nước này cần phải tôn trọng những gì mà cha ông của họ đã từng long trọng tuyên bố từ hàng trăm năm trước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có cống hiến rất to lớn khi đề cập mối quan hệ giữa quyền con người với quyền của dân tộc. Nếu như các bản Tuyên ngôn của nước Mỹ và nước Pháp chỉ đề cập quyền con người như một sự tất yếu của tạo hóa thì Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển sáng tạo, đưa ra một sự khẳng định không thể phủ nhận về quyền độc lập của mỗi dân tộc.
Người viết: “Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Như vậy, quyền dân tộc và quyền con người có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Dân tộc độc lập là điều kiện tiên quyết để bảo đảm thực hiện quyền con người và ngược lại, thực hiện tốt quyền con người chính là phát huy những giá trị cao cả và ý nghĩa thật sự của độc lập dân tộc. Giáo sư người Nhật Bản Singô Sitaba đánh giá: “Cống hiến nổi tiếng của cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ đã phát triển quyền con người thành quyền dân tộc”.
Cống hiến nổi tiếng của cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ đã phát triển quyền con người thành quyền dân tộc.
Giáo sư người Nhật Bản Singô Sitaba
Quyền của con người, của mỗi cá nhân không thể tách rời quyền của dân tộc. Con người được bình đẳng, tự do, hạnh phúc thì dân tộc đó mới được xem là dân tộc độc lập, tự do, hạnh phúc. Hồ Chí Minh từng nói: Đất nước được độc lập, dân tộc được tự do nhưng người dân không có cơm no, áo ấm, không có hạnh phúc thì độc lập, tự do không có ý nghĩa gì.
Thứ hai, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có cống hiến to lớn về quyền bình đẳng giữa nam và nữ. Nhà văn người Mỹ, bà Lady Borton, một nhà nghiên cứu lâu năm về Hồ Chí Minh, đã có phát hiện gây sửng sốt và thú vị khi viết bài đề cập đến bản Tuyên ngôn Độc lập gửi tới Hội thảo quốc tế kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức tại Hà Nội năm 1990.
Bà cho biết: Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ viết: “Chúng tôi coi đây là chân lý hiển nhiên, rằng mọi đàn ông sinh ra đều bình đẳng...” (We hold these truth to be self-evident, that all men are created equal...). Hồ Chí Minh dựa trên tinh thần đó nhưng lại viết: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng...”, có nghĩa là cả đàn ông, đàn bà, cả nam và nữ đều có quyền bình đẳng như nhau. Bà Lady Borton cho biết thêm: Năm 1871, đàn ông da đen ở Mỹ mới có quyền đi bầu; năm 1921, sau đó 50 năm, phụ nữ Mỹ mới có quyền đi bầu. Trong khi đó, ở Việt Nam, người phụ nữ đã tham gia cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 6/1/1946, chỉ 4 tháng sau khi giành được độc lập. Điều này có ý nghĩa cực kỳ to lớn và tiến bộ trong bối cảnh thế giới và khu vực cách đây 80 năm.
Thứ ba, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ thành công của Cách mạng Tháng Tám 1945 là đã “đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa”. Người nêu rõ: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát-xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!” Và khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành cả cuộc đời đấu tranh cho Độc lập dân tộc với chân lý: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, đã có những cống hiến vĩ đại về quyền con người và quyền dân tộc, thể hiện qua các câu chữ bình dị mà sâu sắc, đã thay mặt nhân dân cả nước tuyên bố với thế giới về một thời đại mới trong lịch sử Việt Nam.
PGS, TS NGUYỄN MẠNH HÀ