Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới đã xác định rõ vị trí của cao đẳng như một phần trong hệ thống giáo dục đại học, đóng vai trò quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Thế nhưng tại Việt Nam, cao đẳng vẫn đang được xếp vào hệ thống giáo dục nghề nghiệp.
Theo đó, không ít ý kiến cho rằng cách sắp xếp này không chỉ làm mờ ranh giới giữa các bậc học mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến hình ảnh, vị thế và sức hút của cao đẳng trong nhận thức xã hội và người học.
Ảnh hưởng vị thế, hình ảnh và khả năng cạnh tranh của cao đẳng
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Tiến sĩ Lê Danh Quang - Phó Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Công nghệ cao Hà Nội nhận định rằng, việc xếp trình độ cao đẳng vào hệ thống giáo dục nghề nghiệp thay vì trình độ giáo dục đại học đã và đang tạo ra những tác động rõ rệt đến hình ảnh cũng như vị thế của bậc học này trong xã hội.
Trước hết, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến nhận thức xã hội, khiến giá trị của bằng cao đẳng bị đánh giá thấp hơn. Việc không được đặt trong hệ đại học khiến nhiều người mặc định cao đẳng là bậc học “thấp hơn”, mang tính thực hành đơn thuần và thiếu chiều sâu học thuật, từ đó dẫn đến tâm lý xem nhẹ vai trò và giá trị của trình độ này. Trên thực tế, cao đẳng thường bị đồng nhất với hình ảnh học nghề.
Tiếp đó, dù nhiều ngành nghề hiện nay đòi hỏi kỹ năng thực hành, điều mà chương trình cao đẳng có thể đáp ứng tốt hơn nhưng phần lớn học sinh và phụ huynh vẫn ưu tiên lựa chọn đại học, vì cho rằng đó mới là con đường dẫn tới thành công. Việc không được thừa nhận là một bậc học tương đương đại học đã khiến không ít người học cao đẳng cảm thấy tự ti, ảnh hưởng tiêu cực đến tinh thần, sự tự tin và động lực học tập.
Bên cạnh đó, sự phân loại này còn làm giảm khả năng cạnh tranh việc làm của người học cao đẳng. Nhiều doanh nghiệp hiện nay vẫn có xu hướng ưu tiên tuyển dụng ứng viên có bằng đại học, bất kể năng lực thực tế hay kỹ năng nghề nghiệp. Mặc dù có quy định về liên thông, nhưng việc cao đẳng bị tách biệt khỏi hệ đại học khiến quá trình chuyển tiếp học tập gặp không ít rào cản về thủ tục và công nhận tín chỉ.
Đặc biệt là ảnh hưởng đến công tác xây dựng chương trình đào tạo, công nhận kết quả học tập và quản lý chất lượng giữa các bậc học trở nên rời rạc, thiếu đồng bộ. Đồng thời, các trường cao đẳng cũng không được ưu tiên về nguồn lực đầu tư như các trường đại học, điều này tác động tiêu cực đến điều kiện dạy – học và chất lượng đào tạo nói chung.
Tiến sĩ Lê Danh Quang - Phó Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Công nghệ cao Hà Nội. Ảnh: NVCC
Còn theo quan điểm của Thạc sĩ Trần Phạm Tuân- Phó Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Cộng đồng Hưng Yên, trong bối cảnh hội nhập hiện nay, cần phải đưa cao đẳng là một bậc của hệ thống giáo dục đại học, đó là một bước tiến phù hợp. Dựa theo Luật Giáo dục nghề nghiệp (Luật số 74/2014/QH13) và Khung trình độ Quốc gia Việt Nam, chúng ta hoàn toàn có cơ sở pháp lý để định vị lại vai trò của cao đẳng như một phần không thể thiếu trong phát triển giáo dục đại học đa dạng và thực tiễn.
Tuy nhiên, để làm được điều đó, Nhà nước cần sớm ban hành thông tư điều chỉnh khung trình độ quốc gia theo hướng công nhận rõ ràng trình độ cao đẳng là một bậc trong hệ thống giáo dục đại học. Việc định vị lại vị trí pháp lý của cao đẳng sẽ tạo nền tảng vững chắc để thay đổi nhận thức xã hội, đồng thời nâng cao yêu cầu và tiêu chuẩn đào tạo.
Bên cạnh đó, cần xây dựng chiến lược truyền thông quốc gia về “giá trị thực tiễn của trình độ cao đẳng” để xóa bỏ định kiến xã hội và thu hút người học.
Theo đánh giá của thầy Tuân, nếu cao đẳng được công nhận là một bậc trong hệ thống đại học, các trường sẽ bắt buộc phải chuẩn hóa chương trình đào tạo theo chuẩn đầu ra quốc gia, sát với yêu cầu nghề nghiệp, cũng như yêu cầu về giảng viên, giáo trình, phương pháp giảng dạy sẽ được nâng cấp tương đương đại học nhưng theo hướng thực hành, ứng dụng.
Đồng thời, khi có vị thế tương đương với đại học, các trường sẽ cạnh tranh để giữ chân sinh viên, thu hút người học, buộc họ phải cải tiến chất lượng, dịch vụ hỗ trợ học tập, kết nối doanh nghiệp tốt hơn.
Với vị thế mới, các trường cao đẳng sẽ dễ dàng ký kết hợp tác với doanh nghiệp để thiết kế chương trình đào tạo đồng hành cùng nhu cầu việc làm, đưa sinh viên đi thực tập sớm, tuyển dụng trực tiếp sau tốt nghiệp. Từ đó, chất lượng đầu ra sẽ “chạm” đúng thực tiễn lao động, giúp nhà trường dạy đúng, dạy đủ, dạy sát nghề.
Quan trọng hơn, khi bằng cao đẳng được xã hội nhìn nhận đúng đắn, học sinh sẽ thấy rõ con đường nghề nghiệp rõ ràng, có cơ hội thăng tiến, từ đó học sinh khá giỏi sẽ không còn “mặc cảm” khi chọn học nghề. Các trường cao đẳng sẽ đón được lực lượng học sinh có năng lực tốt, giúp nâng chất lượng đào tạo tổng thể.
Đặc biệt, việc khẳng định vị thế mới cho trình độ cao đẳng sẽ mở ra cơ hội liên kết quốc tế. Các trường cao đẳng Việt Nam có thể hợp tác với các cơ sở đào tạo nghề nước ngoài, triển khai chương trình liên kết, xuất khẩu lao động kỹ năng cao, và thúc đẩy công nhận bằng cấp lẫn nhau. Chất lượng đào tạo vì thế cũng sẽ được đo lường bằng các tiêu chuẩn quốc tế, nâng tầm giáo dục nghề nghiệp Việt Nam trên bản đồ giáo dục khu vực và toàn cầu.
Nâng vị thế cao đẳng để phù hợp với thông lệ quốc tế
Theo Tiến sĩ Phạm Quang Huy – Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Cộng đồng Đồng Tháp: "Nếu tích hợp cao đẳng vào hệ thống giáo dục đại học sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc liên thông giữa các bậc học, đồng thời nâng cao vị thế và hiệu quả đào tạo của trình độ này".
Cụ thể, khi xác lập rõ vị thế của trình độ cao đẳng trong hệ thống giáo dục đại học sẽ nâng cao uy tín cho các cơ sở đào tạo. Các trường sẽ có điều kiện thuận lợi để phát triển theo định hướng đại học ứng dụng, dễ dàng hợp tác quốc tế, triển khai các chương trình liên kết đào tạo và công nhận tín chỉ với các quốc gia khác.
Điều này hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế và đúng với quy định của Khung trình độ quốc gia Việt Nam – trong đó trình độ cao đẳng được xác định là bậc 5 trong tổng số 8 bậc trình độ, liền kề với đại học ở bậc 6.
Ảnh minh họa: website Trường Cao đẳng Cộng đồng Đồng Tháp
Thực tế hiện nay xã hội vẫn quan niệm và phân biệt định nghĩa "thầy" và "thợ" gắn với việc học đại học hay cao đẳng. Tuy nhiên, theo đánh giá của thầy Huy, cách phân biệt này mang tính định kiến và không phản ánh đúng bản chất. Bởi, vị trí công việc không nằm ở tên gọi của bằng cấp mà phụ thuộc vào vị trí công việc, năng lực thực tiễn và sự phát triển nghề nghiệp của người học.
Do đó, việc xác lập vị thế chính thức của trình độ cao đẳng trong hệ thống giáo dục đại học không chỉ góp phần xóa bỏ định kiến “học nghề là thấp”, mà còn mở rộng cơ hội, nâng cao chất lượng và uy tín của giáo dục nghề nghiệp tại Việt Nam. Đây cũng là bước đi cần thiết để thúc đẩy sự công bằng, liên thông và hội nhập quốc tế trong giáo dục hiện đại.
Tiến sĩ Phạm Quang Huy - Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Cộng đồng Đồng Tháp. Ảnh: NVCC
Đồng quan điểm, Tiến sĩ Lê Danh Quang cũng cho rằng cần công nhận trình độ cao đẳng là một bậc học trong hệ thống giáo dục đại học để phù hợp với thông lệ quốc tế hiện nay. Theo thầy, ở nhiều quốc gia phát triển, cao đẳng được xem như một bậc học ban đầu trong giáo dục đại học, đóng vai trò quan trọng trong việc đào tạo lực lượng lao động có kỹ năng thực hành và nền tảng chuyên môn vững chắc.
Cụ thể, tại Úc và New Zealand, các trình độ như Associate Degree và Diploma đều được xếp trong hệ thống giáo dục đại học, tạo điều kiện thuận lợi cho người học tiếp tục liên thông lên các bậc học cao hơn. Tại Hoa Kỳ, các Community Colleges – nơi cấp bằng Associate Degree cũng là một phần không thể tách rời của hệ thống giáo dục đại học, cho phép người học chuyển tiếp lên đại học hệ bốn năm hoặc tham gia thị trường lao động với trình độ chuyên môn vững.
Ở châu Âu, theo Khung trình độ châu Âu (EQF), trình độ cao đẳng thường được xếp ở bậc 5 hoặc 6 – tương đương với các cấp độ đầu tiên trong giáo dục đại học. Việc này không chỉ tạo ra sự liên thông rõ ràng từ cao đẳng lên cử nhân và thạc sĩ mà còn giúp tăng tính minh bạch và khả năng công nhận lẫn nhau về bằng cấp giữa các quốc gia trong khối EU và với các nước khác trên thế giới.
Theo thầy Quang, khi cao đẳng là một bậc trong giáo dục đại học, người học sẽ có lộ trình học tập rõ ràng và hợp lý hơn để liên thông lên. Việc công nhận tín chỉ, chuẩn đầu ra và khung trình độ sẽ thống nhất, giảm rào cản trong quá trình học tiếp.
Hơn hết, người học có thể tích lũy tín chỉ từ cao đẳng, sau đó học tiếp các chương trình nâng cao mà không phải học lại từ đầu. Điều này giúp tiết kiệm thời gian và chi phí cho người học.
Việc sắp xếp cao đẳng trong hệ đại học giúp hình thành hệ thống học tập đa tầng, linh hoạt (bậc 5, 6, 7 theo khung trình độ quốc gia). Người học có thể ra – vào hệ thống học tập theo nhu cầu, vừa học vừa làm, nâng cao trình độ từng bước.
Đặc biệt, khi học cao đẳng là bước đầu trong giáo dục đại học, việc liên thông trở nên dễ tiếp cận hơn, khuyến khích người lao động nâng cao tay nghề hoặc chuyển hướng nghề nghiệp. Điều này đáp ứng yêu cầu phát triển nhân lực chất lượng cao, thích nghi với sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ và thị trường lao động.
Việc đưa cao đẳng vào hệ thống giáo dục đại học sẽ hình thành hệ thống học tập đa tầng. Ảnh: website hht.edu.vn
Ngoài những điểm tích cực trên, Tiến sĩ Lê Danh Quang cũng chỉ ra một số ảnh hưởng tích cực về chất lượng đào tạo của trường cao đẳng nếu được công nhận là một bậc trong giáo dục đại học.
Theo đó, khi cao đẳng được đặt ở trình độ đại học, các trường cao đẳng sẽ phải cạnh tranh trực tiếp với đại học để thu hút người học. Điều này tạo ra động lực buộc các cơ sở đào tạo phải đổi mới chương trình, phương pháp giảng dạy, và tăng cường chất lượng dịch vụ học tập. Việc nâng vị thế đi kèm với yêu cầu cao hơn về chuẩn đầu ra, khung chương trình, đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất… Các trường sẽ chủ động soát xét, cập nhật chương trình theo chuẩn khu vực và quốc tế, nhằm đảm bảo người học cao đẳng có năng lực cạnh tranh thật sự.
Để khẳng định vị thế và giá trị bằng cấp, các trường cao đẳng phải đào tạo sát với nhu cầu doanh nghiệp, giúp sinh viên ra trường làm được việc ngay. Điều này thúc đẩy quá trình gắn kết giữa nhà trường – doanh nghiệp – nhà nước chặt chẽ hơn trong xây dựng và triển khai chương trình đào tạo.
Khi được xem là một phần của hệ thống đại học, các trường cao đẳng có khả năng thu hút đầu tư công – tư, tiếp cận các dự án phát triển giáo dục chất lượng cao. Từ đó, họ sẽ cải thiện được đội ngũ giảng viên, phòng thực hành, công nghệ giảng dạy, đáp ứng tiêu chuẩn mới.
Ngoài ra, việc nâng cao vị thế đi kèm yêu cầu phải tham gia kiểm định chất lượng độc lập, tăng tính minh bạch trong đào tạo. Các trường sẽ buộc phải đo lường đầu ra thực tế, tỉ lệ việc làm của sinh viên, mức độ hài lòng của nhà tuyển dụng để không bị tụt hậu.
“Việc nâng vị thế của cao đẳng không chỉ mang ý nghĩa danh xưng, mà còn tạo áp lực tích cực thúc đẩy cải tiến toàn diện từ chương trình, phương pháp, đội ngũ đến cách tiếp cận người học và xã hội. Đây là cơ hội để các trường cao đẳng "lột xác", khẳng định vai trò trong hệ sinh thái giáo dục hiện đại, linh hoạt và thực tiễn”, thầy Quang nhấn mạnh.
ĐÀO HIỀN