Sự thay đổi trong chính sách thương mại toàn cầu, đặc biệt là chính sách thuế đối ứng của Mỹ kết hợp với áp lực điều hành lãi suất nội địa và rủi ro gia tăng từ nợ xấu, đang đặt hệ thống ngân hàng vào tình thế phải thích ứng nhanh chóng.
Cú sốc thuế quan
Ngày 2/4, thị trường tài chính trong nước chấn động khi chính quyền Mỹ bất ngờ công bố áp mức thuế đối ứng lên tới 46% đối với một loạt mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam, cao nhất từ trước đến nay trong quan hệ thương mại song phương.
Mặc dù ngay sau đó, Tổng thống Trump tuyên bố tạm hoãn thi hành trong 90 ngày để tạo dư địa đàm phán, nhưng thông tin này vẫn tạo hiệu ứng tâm lý mạnh mẽ lên các doanh nghiệp xuất khẩu và gián tiếp đến hệ thống ngân hàng.
Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, hiện nay Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 136,6 tỷ USD (năm 2024). Do đó, bất kỳ xáo trộn nào trong quan hệ thương mại với Mỹ đều có khả năng tác động dây chuyền lên các lĩnh vực liên quan, trong đó có hoạt động tín dụng ngân hàng.
Bàn về động thái áp thuế của Mỹ, Chứng khoán Vietcombank (VCBS) nhận định ngành ngân hàng sẽ chịu ảnh hưởng gián tiếp khi thu nhập các doanh nghiệp liên quan giảm sút. Từ đó, tác động đến dòng tiền trả nợ cũng như nhu cầu tín dụng.
Dù vậy, các chuyên gia VCBS đánh giá tác động là không quá lớn do tổng dư nợ cho vay xuất khẩu chỉ chiếm trên 5% tổng dư nợ toàn hệ thống hay dư nợ FDI chiếm khoảng 2%.
Theo VCBS, nhóm ngân hàng quốc doanh bao gồm Vietcombank, BIDV, VietinBank là nhóm có dư nợ xuất nhập khẩu là FDI lớn. Bên cạnh đó, một số ngân hàng đang tập trung đẩy mạnh tiếp cận nhóm FDI như VPBank, Techcombank và MB cũng sẽ gặp những thách thức ngắn hạn trong việc mở rộng tín dụng mảng này.
Đánh giá về tác động thuế quan đến ngành ngân hàng, ông Lê Hoài Ân, CFA, Chuyên gia nghiên cứu chiến lược ngân hàng, cho rằng sẽ không có ảnh hưởng trực tiếp quá lớn, bởi hoạt động chủ yếu của các ngân hàng là dịch vụ trong nước. Song, tác động gián tiếp lại đáng chú ý, đặc biệt tại những ngân hàng cho vay các doanh nghiệp xuất khẩu hoặc doanh nghiệp FDI (đầu tư trực tiếp nước ngoài).
Hiện tại, ở Việt Nam, chỉ khoảng ba ngân hàng quốc doanh (Vietcombank, VietinBank, BIDV) có dư nợ FDI chiếm tỷ trọng đáng kể, vì các doanh nghiệp FDI thường chia khoản vay giữa “ngân hàng sở tại” của họ và ngân hàng quốc doanh trong nước.
Do đó, nếu luồng vốn FDI giảm hay hoạt động xuất khẩu bị ảnh hưởng nặng nề, thì Vietcombank, VietinBank, BIDV có thể bị tác động đến huy động vốn ngoại tệ, tiền gửi không kỳ hạn (CASA), cũng như rủi ro nợ xấu nếu doanh nghiệp xuất khẩu gặp khó.
Chia sẻ tại đại hội đồng cổ đông thường niên vào tháng 4, Chủ tịch Vietcombank Nguyễn Thanh Tùng cho biết tác động từ thuế quan Mỹ sẽ rõ rệt do ngân hàng đang chiếm khoảng 20% thị phần thanh toán quốc tế, tài trợ thương mại toàn thị trường.
“Nhiều khách hàng của Vietcombank là các doanh nghiệp xuất khẩu sang Mỹ trong các lĩnh vực như điện tử, gỗ, thủy sản, nhựa... – đây đều là những ngành dễ bị ảnh hưởng bởi chính sách thuế cao.”, ông Tùng nói
Bên cạnh đó, ông cũng cho biết danh mục khách hàng FDI tại Vietcombank lớn so với các ngân hàng khác, chiếm hơn 20% tổng dư nợ bán buôn, hơn 40% tổng huy động vốn và hơn 50% về doanh số hạch toán quốc tế tài trợ thương mại. Điều này khiến Vietcombank có lẽ chịu tác động lớn hơn nhiều ngân hàng khác.
Còn tại BIDV, lãnh đạo ngân hàng ước tính tổng dư nợ chịu tác động khoảng 300.000 tỷ đồng, chiếm 15% tổng dư nợ, tập trung ở các ngành thép, nhựa, cơ khí, thủy sản, giày da, may mặc, logistics, bất động sản khu công nghiệp. Tuy nhiên, mức ảnh hưởng không quá lớn.
“Chiến tranh thương mại dự báo sẽ tác động đến tín dụng, huy động vốn và chất lượng tài sản, kéo theo lợi nhuận suy giảm. Ngân hàng dự kiến trích lập dự phòng khoảng 21.000 tỷ đồng trong năm 2025”, ông ông Phan Đức Tú, Chủ tịch HĐQT BIDV nói.
Tại nhóm ngân hàng tư nhân, mức độ ảnh hưởng được đánh giá là thấp hơn, nhờ chiến lược tín dụng đa dạng hóa, tỷ trọng dư nợ liên quan đến thị trường Mỹ thấp và khẩu vị rủi ro thận trọng từ sớm.
Mặc dù mức ảnh hưởng nhiều hay ít, các ngân hàng đều đã nhanh chóng nhận định tình hình và đưa ra các kịch bản đối phó tương ứng để có thể kiểm soát rủi ro, duy trì mức tăng trưởng ổn định.
Áp lực kép khiến NIM giảm dần
Trong khi thương mại quốc tế có thể mang đến những hệ lụy, cú sốc từ bên ngoài, lãi suất và biên lãi thuần lại là một trong những thách thức nội tại, một bài toán khó mà các ngân hàng đang phải tìm cách giải.
Biên lãi thuần (NIM) toàn ngành ngân hàng tiếp tục xu hướng thu hẹp trong quý I khi chi phí vốn tăng nhanh hơn lợi suất tài sản sinh lời. Diễn biến này phản ánh rõ áp lực từ mặt bằng lãi suất cho vay đang ngày càng giảm sâu, và dư địa tăng lãi suất đầu ra khó thực thi được.
Nguồn: Wichart, Minh Nguyệt tổng hợp.
Trong bối cảnh đó, khả năng duy trì NIM ổn định của ngành ngân hàng đang trở nên thách thức hơn.
Cụ thể, lãi suất huy động bình quân tăng 0,08%, trong khi lãi suất cho vay bình quân giảm khoảng 0,4% so với quý trước. Điều này khiến các ngân hàng quy mô lớn, vốn mở rộng tín dụng mạnh, chịu áp lực rõ rệt hơn so với nhóm ngân hàng nhỏ, vốn có khả năng điều chỉnh cấu trúc huy động linh hoạt hơn.
Theo dữ liệu từ Wichart, tính đến cuối quý I, NIM của các ngân hàng niêm yết ở mức 3,31%, thấp nhất kể từ quý IV/2020. So với đỉnh 3,79% ghi nhận vào quý III/2022, NIM ngành đã giảm liên tục trong hai năm qua.
Theo thống kê, ghi nhận NIM có sự phân hóa mạnh giữa các ngân hàng. Nhóm nhà băng cổ phần với quy mô lớn như VPBank, HDBank … ghi nhận NIM đều trên 5%, thậm chí tiệm cận 6%. Ngược lại, một số nhà băng quy mô nhỏ chỉ có mức NIM dưới 2%.
Đứng trước xu hướng thu hẹp NIM ngay từ thời điểm này, các ngân hàng Việt Nam phải có những giải pháp để chuyển dịch cơ cấu lợi nhuận. Các ngân hàng cần đẩy mạnh doanh thu từ các hoạt động dịch vụ, đa dạng hóa nguồn thu thay vì quá phụ thuộc vào hoạt động cho vay truyền thống.
Ngoài ra, các ngân hàng cũng cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, nhằm tiết giảm chi phí hoạt động, gia tăng năng lực cạnh tranh, tăng tỷ trọng tiền gửi không kỳ hạn (CASA) nhằm giảm chi phí vốn đầu vào.
Nợ xấu tiềm ẩn: Tảng băng chìm đang nổi
Song song với hai biến số vĩ mô nêu trên, nợ xấu là vấn đề nội tại mà ngành ngân hàng đang đối mặt. Ngay trong quý đầu năm 2025, số dư nợ xấu của phần lớn ngân hàng đều ghi nhận tăng và có tới 16/27 trong số ngân hàng niêm yết là tăng hai chữ số.
Theo số liệu từ NHNN nợ xấu trong hệ thống các tổ chức tín dụng tính đến tháng 2/2025, tỷ lệ nợ xấu nội bảng (không bao gồm 5 ngân hàng MBV, GPBank, VCBNeo, Vikki Bank và SCB) ở mức 1,88%.
Theo dữ liệu ngành của Wichart, trong quý đầu năm, số dư nợ xấu (nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5) của ngành ngân hàng đã bất ngờ tăng thêm gần 17% so với cuối năm 2024, lên 265.549 tỷ đồng. Đây là mức nợ xấu cao kỷ lục của ngành ngân hàng.
Nguồn: Wichart, Minh Nguyệt tổng hợp.
Theo thống kê từ báo cáo tài chính của 27 ngân hàng niêm yết trong quý I/2025, số dư nợ xấu của 24/27 nhà băng đã tăng so với cuối năm 2024. Nhìn chung trên số liệu toàn ngành, có thể thấy nợ xấu gia tăng chủ yếu ở các khoản nợ nhóm 3 và nợ nhóm 5.
Trong bối cảnh thuế quan và chi phí vốn có nguy cơ tăng lên, một bộ phận doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp xuất khẩu quy mô vừa và nhỏ, có thể gặp khó khăn trong duy trì dòng tiền. Điều này có khả năng kéo theo sự gia tăng nợ xấu tại các ngân hàng cho vay tập trung vào nhóm khách hàng này.
Luật hóa Nghị quyết 42 hiện đang trong quá trình được sửa đổi, bổ sung và trình Quốc hội. Đây được kỳ vọng sẽ là chốt chặn quan trọng để hệ thống ngân hàng có công cụ pháp lý hữu hiệu trong xử lý tài sản đảm bảo và thu hồi nợ.
Tuy nhiên, việc luật hóa không thể mang lại hiệu quả tức thời, trong khi rủi ro nợ xấu gia tăng lại đang diễn ra nhanh chóng, đòi hỏi các ngân hàng phải hành động ngay bằng các biện pháp nội bộ.
Giới chuyên gia cảnh báo rủi ro nợ xấu tiềm ẩn vẫn hiện diện, đặc biệt khi các ngân hàng bị kiểm soát đặc biệt hiện chiếm gần 5% quy mô GDP.
Dù Thông tư 02 (quy định cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ) đã hết hiệu lực từ tháng 1/2025, song nhóm phân tích đánh giá rủi ro từ dư nợ tái cơ cấu không lớn do các ngân hàng đã chủ động trích lập dự phòng.
Tính đến cuối tháng 8/2024, dư nợ tái cơ cấu theo Thông tư 02 chỉ còn khoảng 126.000 tỷ đồng, tương đương khoảng 0,8% tổng dư nợ hệ thống.
Tuy nhiên, bộ đệm dự phòng rủi ro của ngành đã mỏng dần, hiện trở về mức tương đương trước đại dịch COVID-19. Trong đó, giới phân tích đánh giá các ngân hàng thương mại tư nhân quy mô nhỏ với bộ đệm vốn yếu hơn sẽ phải đối mặt với áp lực chi phí dự phòng cao trong năm nay.
Đáng chú ý, rủi ro nợ xấu cũng gắn liền với diễn biến của thị trường bất động sản. Nếu thị trường bất động sản hồi phục trong nửa cuối năm 2025 như kỳ vọng, điều này có thể góp phần cải thiện bức tranh nợ xấu và tăng cường bộ đệm vốn cho toàn hệ thống ngân hàng.
(Trích Đặc san Doanh nhân Việt Nam - Số Tháng 6 của Tạp chí Điện tử Doanh nhân Việt Nam)
Minh Nguyệt