Chữ “Tâm” soi chiếu đến muôn đời
Nguyễn Du được sinh ra trong một gia đình trâm anh thế phiệt, dòng họ văn chương khoa bảng. Những yếu tố gốc rễ ấy cùng với tài năng thiên bẩm tạo nên một con người “Nền phú hậu, bậc tài danh/ Văn chương nết đất, thông minh tính trời”. Cụ sớm chịu tổn thất lớn khi vào năm 10 tuổi, thân phụ qua đời; 13 tuổi, thân mẫu qua đời. Gia biến, những thăng trầm của thế sự và 10 năm gió bụi (thập tải phong trần) sống ở quê vợ Thái Bình, 6 năm ở quê nhà nơi “Bờ sông Lam có một nhà nho thật nghèo”, những cảnh ngộ từng chứng kiến khi đi sứ ở Trung Quốc đã khiến trái tim đa cảm của thi nhân dâng lên những nỗi niềm thổn thức: “Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”.
Di tích Nguyễn Du. Ảnh: Đậu Hà
Di sản thơ chữ Hán của Nguyễn Du để lại gồm 3 tập: “Thanh Hiên thi tập” (78 bài), “Nam Trung tạp ngâm” (40 bài), “Bắc hành tạp lục” (131 bài) in đậm dấu ấn một hồn thơ rất giàu tình thương đời, tình yêu nước và yêu dân, yêu quê hương núi Hồng - sông Lam. Ngày nay đọc lại “Thanh Hiên thi tập”, dù cảm nhận được nỗi buồn vì nghèo đói, bệnh tật của nhà thơ, nhưng hình ảnh núi Hồng - sông Lam trong ông vẫn thật đẹp, kỳ vĩ.
Cùng với thơ chữ Hán là thơ Nôm, trong đó “Văn tế thập loại chúng sinh” (Văn chiêu hồn), gồm 184 câu song thất lục bát chất chứa nỗi cảm thông cùng tận với tất cả những thân phận khổ đau, những linh hồn bơ vơ không nơi nương tựa. Ngoài ra còn có tác phẩm “Thác lời trai phường nón” và một bài văn tế mà nhiều người cho rằng là của Nguyễn Du: “Sinh tế Trường Lưu nhị nữ”…
Về thơ chữ Nôm, trác tuyệt nhất, vi diệu nhất, có đời sống riêng dài lâu nhất, trở thành hiện tượng văn hóa Việt Nam điển hình - đó là Truyện Kiều. Truyện Kiều là viên ngọc bích lung linh mà soi chiếu vào từ góc độ nào cũng thấy lấp lánh những vẻ đẹp của ngôn ngữ và tư tưởng, tâm hồn người viết ẩn sâu trong đó. Ngày nay, là người Việt Nam, ai cũng nhớ 2 câu hàm chứa triết lý nhân sinh nổi tiếng:
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài
Đây là 2 câu/1.941 câu thơ lục bát Nguyễn Du sáng tác hoàn toàn, liên kết hoàn hảo cùng 1.313 câu lục bát viết dựa vào “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc). Đây vừa là tuyên ngôn sống, vừa là tuyên ngôn nghệ thuật của ông. Qua hơn 200 năm kể từ khi Truyện Kiều ra đời, tuyên ngôn ấy vẫn mới mẻ, có giá trị nhân sinh to lớn, trở thành mục tiêu hướng tới của nhân loại, giúp cho đạo đức xã hội được bền vững, giúp xây dựng phẩm chất con người mới. Đây chính là sự vượt xa về tầm tư tưởng cũng như tài năng của Nguyễn Du so với nhiều tác giả cùng thời.
“Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh”
Tôi muốn mượn câu Kiều của cụ để nói về sự truyền tụng, lan tỏa, thẩm thấu, đam mê thi phẩm Truyện Kiều trong các tầng lớp người Việt qua hơn 2 thế kỷ… Với ngôn ngữ thơ lục bát Việt Nam lung linh, đa tầng ý nghĩa, sâu sắc và có sức gợi tả mãnh liệt, văn hóa Kiều tiếp biến không ngừng nghỉ, xuyên thời đại, xuyên biên giới.
Các bản Kiều và tác phẩm của Nguyễn Du bằng Hán - Nôm trưng bày tại Di tích Nguyễn Du.
Hiếm có tác phẩm văn học nào trên thế giới lại được người dân thuộc làu, vận dụng vào đời sống với tần suất cao như thế. Thế giới tâm trạng nhân vật, nhất là nàng Kiều khiến ai cũng có thể vận vào mình trong mọi cảnh huống. Khi vui: “Trời còn có buổi hôm nay/ Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời”, khi buồn: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”; khi trao kỷ vật: “Rằng trăm năm cũng từ đây/ Của tin gọi một chút này làm ghi”; khi sum họp sau xa cách: “Những là rày ước mai ao/ Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình”; hoặc tình huống phó mặc: “Cũng liều nhắm mắt đưa chân/ Mà xem con tạo xoay vần đến đâu”… Các nhân vật được điển hình hóa tài tình như Thúy Kiều, Thúy Vân, Kim Trọng, Từ Hải, Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Thúc Sinh, Hoạn Thư, Tú Bà… vẫn được đem ra ví von trong đời sống. Không phải ngẫu nhiên mà Bác Hồ đã sử dụng Truyện Kiều trong nói và viết, nhiều vị nguyên thủ quốc gia trên thế giới đã “lẩy Kiều” trong những lần gặp gỡ tại Việt Nam.
Bảo vệ quyền con người - bài học luôn mới
Kể từ thời điểm Việt Nam kỷ niệm 200 năm Ngày sinh Nguyễn Du (1965), năm 1975, đất nước hoàn toàn thống nhất - “Khúc đâu đầm ấm dương hòa”. 50 năm, Việt Nam hòa bình, thịnh vượng, từng bước chuyển mình bước vào kỷ nguyên mới. Cùng với xây dựng một nước Việt Nam hiện đại, văn minh, kinh tế phát triển, Đảng ta luôn coi trọng giáo dục, gìn giữ bản sắc văn hóa, xây dựng con người Việt Nam hội đủ các yếu tố chân, thiện, mỹ, nhân văn, trọng dụng và thu hút nhân tài. Chữ “tâm” luôn được đặt trước hết và song hành với chữ “tài”.
Đại thi hào Nguyễn Du - người con của dòng họ Nguyễn Tiên Điền, đã trở thành một biểu tượng văn hóa trong tâm thức người Việt.
Các giá trị truyền thống: yêu gia đình, hiếu đễ với mẹ cha, yêu quê hương đất nước, thủy chung, trong sáng, cao thượng trong tình yêu, hướng thiện, tự trọng, xả thân hy sinh… vẫn được coi là gốc rễ trong xây dựng con người thời đại mới. Cùng với đó là tinh thần đấu tranh không khoan nhượng với cái ác, cái xấu, làm cho xã hội công bằng, tốt đẹp.
Dẫu hiện nay xã hội đã văn minh, tiến bộ, quyền được sống, được tự do, được mưu cầu hạnh phúc của con người cơ bản đảm bảo, nhưng ở một số quốc gia trên thế giới, chiến tranh, xung đột vẫn còn xảy ra gây bao đau khổ cho con người. “Những phường bán thịt, những quân buôn người” vẫn còn giăng bẫy khiến nhiều người, không chỉ là phụ nữ bị đẩy vào những tình cảnh éo le, tủi nhục hay những màn kịch bắt cóc, lừa đảo trên không gian mạng “làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền”... Chính vì vậy, vấn đề bảo vệ nhân quyền, trong đó có các quyền cơ bản là được sống, được tự do, được mưu cầu hạnh phúc, được bảo vệ bình an lại càng đặt ra cấp thiết, đòi hỏi tất cả các quốc gia, trong đó có Việt Nam phải vào cuộc, hành động quyết liệt, làm cho thế giới hòa bình, xã hội văn minh, con người hạnh phúc.
Tháng 12/2025
Bùi Minh Huệ