Hiệu quả từ thực tiễn
Gặp tôi, ngư dân Nguyễn Minh Danh, ở phường Hoài Nhơn, không giấu được niềm phấn khởi với chuyến biển khá thành công, khi tàu đánh bắt được nhiều cá bò gù. Theo ông Danh, năng suất nâng lên là nhờ đầu tư 20 triệu đồng để mua máy kéo câu tự động, giúp giảm sức lao động, tăng hiệu quả đánh bắt. Trước đây, mỗi chuyến biển kéo dài hơn 20 ngày, tàu cần đến 6 -7 lao động.
Việc sử dụng máy móc, thiết bị trên tàu giúp giảm sức lao động, tăng hiệu quả đánh bắt và nâng cao chất lượng hải sản. Ảnh: N.N
Từ khi sử dụng máy kéo câu tự động, số lượng lao động trên tàu giảm còn 4 - 5 người. Máy hoạt động theo nguyên lý: Khi cá cắn câu, thay vì giật mạnh khiến cá vùng vẫy dữ dội, máy sẽ tự động xả dây để làm giảm lực quẫy, rồi thu dây lại khi cá yếu dần. Ngư dân chỉ cần điều chỉnh tốc độ quay phù hợp. Nhờ cá không vùng vẫy nên giảm tích tụ axit lactic - nguyên nhân làm thịt bị nhũn, chua. Thiết bị này cũng giúp giảm tỷ lệ cá bị sẩy trong quá trình kéo câu.
Ở Hoài Nhơn, ngư dân Bùi Văn Xếp nổi tiếng là một trong những người tiên phong ứng dụng công nghệ vào đánh bắt xa bờ. Nhờ vậy, hai chiếc tàu câu cá ngừ đại dương do ông quản lý luôn ổn định sản lượng, chất lượng cá được thương lái đánh giá cao. Hiện tại, ông Xếp đã đầu tư các thiết bị gây tê (shocker), máy kéo câu tự động, hệ thống hầm đá hiện đại cho tàu cá của mình.
Ông Xếp chia sẻ: Cùng với đầu tư thiết bị, tôi rất chú trọng bảo quản cá đúng kỹ thuật để đảm bảo chất lượng. Tôi luôn yêu cầu anh em thuyền viên khi bắt được cá phải xả sạch máu, phá tủy và loại bỏ nội tạng, đảm bảo cá đã chết hoàn toàn rồi mới cho vào bảo quản ở hầm đá. Làm vậy, cá sẽ giữ được độ tươi lâu, không bị thâm hay bở thịt.
Sản lượng, tỷ lệ công nghệ hóa đều vượt chỉ tiêu
Từ năm 2015, tỉnh Bình Định khi đó đã triển khai Dự án chuyển giao công nghệ khai thác cá ngừ đại dương Nhật Bản, do Công ty Kato Hitoshi General Office thực hiện. Dự án cung cấp ngư cụ, kỹ thuật xử lý sau thu hoạch và quy trình bảo quản tiên tiến. Sau khi dự án kết thúc, nhiều ngư dân đã chủ động duy trì, cải tiến và áp dụng công nghệ phù hợp thực tiễn địa phương, góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu. Đến nay, một số kỹ thuật như: bảo quản cá bằng hầm cách nhiệt, xử lý cá ngay sau khi bắt lên bờ… đã trở thành quy trình quen thuộc trên nhiều tàu đánh bắt xa bờ.
Tùy vào chất lượng thực tế khi vào bờ, hải sản được thu mua với nhiều giá khác nhau, có khi chênh lệch đến 10 giá. Ảnh: N.N
Hiện toàn tỉnh có khoảng 1.300 tàu cá xa bờ áp dụng công nghệ cao, chiếm 40,2% tổng số tàu, vượt mục tiêu ban đầu là 36%. Đáng chú ý, 100% tàu xa bờ đã lắp đặt thiết bị giám sát hành trình (VMS); phần lớn tàu cũng sử dụng máy dò cá siêu âm, thiết bị đo dòng chảy, tời thủy lực, lái thủy lực... phục vụ nghề lưới vây.
Ngoài ra, có khoảng 2.300 tàu cá (chiếm 72%) chuyển sang dùng đèn led thay cho đèn halogen, giúp tiết kiệm nhiên liệu, nâng cao hiệu quả khai thác và giảm ô nhiễm môi trường. Một số tàu còn thử nghiệm sử dụng hầm bảo quản làm từ vật liệu cách nhiệt cao như polyurethan và ứng dụng công nghệ nano để kéo dài thời gian bảo quản.
Đáng chú ý, khoảng 600 tàu cá xa bờ đã sử dụng nhật ký điện tử để ghi nhận sản lượng khai thác, phục vụ cho việc giám sát, quản lý và truy xuất nguồn gốc phục vụ xuất khẩu.
Theo Chi cục Thủy sản (Sở Nông nghiệp và Môi trường), giai đoạn 2020 - 2025, sản lượng hải sản khai thác ứng dụng công nghệ hiện đại ước đạt 290 nghìn tấn, vượt xa mục tiêu đề ra trước đó là 220 nghìn tấn. TS Trần Văn Vinh, Phó Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản cho rằng, việc ứng dụng công nghệ hiện đại trong nghề cá là xu thế tất yếu, luôn cần được khuyến khích và hỗ trợ mở rộng. Bởi, không chỉ nâng cao giá trị kinh tế, việc này còn tạo tiền đề để phát triển nghề cá bền vững, tạo động lực để ngư dân bám biển khai thác.
NGỌC NGA