Yếu tố quyết định tương lai dân tộc
Điểm nhấn quan trọng là lần đầu tiên giáo dục được nhìn nhận không chỉ như một quốc sách hàng đầu, mà còn là yếu tố quyết định đến tương lai dân tộc - gắn trực tiếp với mục tiêu đưa Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045.
So với giai đoạn trước, Nghị quyết 71-NQ/TW chuyển trọng tâm từ “đổi mới căn bản, toàn diện” (Nghị quyết 29-NQ/TW năm 2013) sang “đột phá chiến lược” trong giáo dục. Tinh thần này thể hiện quyết tâm chính trị rất cao của Đảng ta, đó là coi giáo dục và đào tạo là trọng tâm của Chiến lược phát triển quốc gia trong thời kỳ công nghiệp 4.0 và hội nhập sâu rộng. Nghị quyết 71-NQ/TW mở rộng không gian phát triển giáo dục ra ngoài phạm vi nhà trường, kết nối chặt chẽ với khoa học, công nghệ, kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và chuyển đổi số.
Giáo dục được xem là vấn đề “sống còn” của quốc gia, chuyển từ tư duy “cải tiến cục bộ” sang tư duy “kiến tạo, dẫn dắt phát triển” đất nước bằng tri thức và nhân lực chất lượng cao.
Tổng Bí thư Tô Lâm chủ trì cuộc họp về tình hình triển khai thực hiện Nghị quyết số 71 – NQ/TW ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển Giáo dục và Đào tạo Chiều 9/9/2025. Ảnh: Thống Nhất - TTXVN
Điểm mới nổi bật trong Nghị quyết 71-NQ/TW là sự cân bằng giữa giáo dục đại chúng và giáo dục tinh hoa. Nghị quyết nhấn mạnh phải đồng thời bảo đảm tính toàn dân (phổ cập, công bằng giáo dục) và chú trọng đào tạo nhân tài, nhân lực chất lượng cao cho đất nước. Quan điểm “giáo dục tinh hoa” lần đầu được đề cập rõ nét bên cạnh giáo dục đại trà, coi việc nuôi dưỡng nhân tài là những động cơ “phản lực” giúp nền kinh tế vượt “bẫy” thu nhập trung bình, tiến vào nhóm nước phát triển.
Nghị quyết 71-NQ/TW yêu cầu xây dựng đề án đào tạo tài năng tại các cơ sở giáo dục, nhằm khắc phục quan niệm trước đây vốn thiên về “phổ cập hóa” mà thiếu quan tâm đến bồi dưỡng đội ngũ tinh hoa. Đây là bước chuyển tư duy quan trọng: giáo dục vừa phải bảo đảm công bằng xã hội, vừa tạo môi trường cho những cá nhân kiệt xuất phát triển.
Nghị quyết cũng đưa ra mục tiêu và chỉ tiêu cụ thể chưa từng có để đo lường sự phát triển. Giáo dục Việt Nam lần đầu được đặt trong bảng xếp hạng thế giới, gắn với các chỉ số quốc tế (HDI, GII…) nhằm định hướng phấn đấu. Chẳng hạn, đến năm 2030, phấn đấu ít nhất có 8 cơ sở giáo dục đại học thuộc top 200 châu Á, ít nhất một cơ sở đại học vào top 100 thế giới (theo xếp hạng uy tín), và tiến tới năm 2045, Việt Nam nằm trong nhóm 20 quốc gia có hệ thống giáo dục hàng đầu. Những chỉ tiêu này thể hiện khát vọng đưa giáo dục Việt Nam “ngang hàng với các nền giáo dục tiên tiến châu Á”.
Nghị quyết 71-NQ/TW xác định giáo dục đại học là “vườn ươm nhân tài quốc gia”, trực tiếp sản sinh lực lượng tiên phong quyết định năng lực cạnh tranh và vị thế quốc gia trong kỷ nguyên toàn cầu hóa. Theo đó, chính sách thu hút nguồn lực chất lượng cao được đề ra: mời 2.000 giảng viên giỏi từ nước ngoài; tăng 12% số công bố khoa học quốc tế; đặt mục tiêu có 5 trường đại học lọt top 100 thế giới ở một số lĩnh vực vào 2045. Những giải pháp này phản ánh định hướng quốc tế hóa và hiện đại hóa giáo dục một cách có trọng điểm, tập trung tạo những đầu tàu (trường đại học đẳng cấp cao) để dẫn dắt hệ thống thay vì dàn trải.
Bên cạnh tầm nhìn dài hạn, Nghị quyết 71-NQ/TW cũng đã đưa ra hàng loạt quyết sách cụ thể nhằm “gỡ nút thắt” cho giáo dục. Trước hết, bài toán nguồn lực được giải quyết bằng cam kết ngân sách mạnh mẽ: tối thiểu 20% tổng chi ngân sách dành cho giáo dục, trong đó ít nhất 5% tổng chi ngân sách đầu tư cho giáo dục (và 3% cho giáo dục đại học). Việc tăng tỷ trọng chi cho đại học lên 3% (từ mức xấp xỉ 1,5 - 1,8% trước đây) được coi là đột phá tài chính nhằm chấm dứt tình trạng đầu tư manh mún, thiếu bền vững cho giáo dục đại học.
Song song đó, Nghị quyết chủ trương xây dựng một Chương trình mục tiêu quốc gia mới về phát triển giáo dục và đào tạo, cùng các chính sách ưu đãi về đất đai, thuế… để huy động tối đa nguồn lực xã hội đầu tư cho giáo dục. Đặc biệt, Nghị quyết khuyến khích phát triển giáo dục ngoài công lập: ưu tiên cho các cơ sở giáo dục tư thục thuê cơ sở vật chất dư thừa của Nhà nước, hỗ trợ tín dụng… nhằm tối ưu hóa hiệu quả đầu tư, tránh lãng phí và bảo đảm quyền tiếp cận giáo dục cho người dân. Định hướng này cho thấy sự coi trọng vai trò của khu vực tư nhân và cộng đồng trong phát triển giáo dục, phù hợp với xu thế xã hội hóa giáo dục.
Một điểm mới then chốt khác là chính sách đối với nhà giáo và quản trị hệ thống. Nghị quyết 71-NQ/TW đề ra chế độ đãi ngộ vượt trội: phụ cấp ưu đãi nghề tối thiểu 70% cho giáo viên (100% với giáo viên vùng khó khăn), 30% cho nhân viên hỗ trợ. Đây là giải pháp trực diện nhằm “giúp nhà giáo yên tâm công tác, cống hiến và giữ chân người giỏi ở lại với nghề”, qua đó nâng cao chất lượng đội ngũ.
Tách bạch tự chủ học thuật với tự chủ tài chính
Về cơ chế quản lý, Nghị quyết yêu cầu bảo đảm quyền tự chủ đầy đủ, toàn diện cho các trường đại học, tách bạch tự chủ học thuật với tự chủ tài chính. Các cơ sở giáo dục đại học được trao quyền tự quyết về chuyên môn, tổ chức nhân sự, tuyển dụng người tài (kể cả nhân lực quốc tế) mà không phụ thuộc vào mức tự chủ tài chính. Điều này kỳ vọng tạo nên những đại học nghiên cứu tinh hoa, đẳng cấp quốc tế khi được “cởi trói” khỏi các rào cản hành chính cứng nhắc.
Nghị quyết 71-NQ/TW cũng mạnh dạn cải cách mô hình quản trị: “Không tổ chức hội đồng trường” đối với cơ sở giáo dục công lập (trừ hợp tác quốc tế đặc thù), thực hiện mô hình Bí thư cấp ủy đồng thời là người đứng đầu cơ sở. Chủ trương này nhằm tinh gọn bộ máy quản lý, tránh tình trạng chồng chéo, hình thức, qua đó đẩy mạnh phân cấp, phân quyền để cơ sở chủ động, linh hoạt hơn.
Cùng với chuyển đổi mô thức quản lý “từ hành chính sang kiến tạo phát triển, quản trị hiện đại”, những bước đi này hứa hẹn phá bỏ tâm lý quan liêu, trì trệ, tạo không gian cho sáng tạo và nâng cao hiệu quả quản trị hệ thống.
Nghị quyết 71-NQ/TW cũng phản ánh xu hướng giáo dục hiện đại, nhân văn khi xác định “người học là trung tâm, nhà giáo là động lực quyết định”, đề cao sự phối hợp giữa gia đình - nhà trường - xã hội trong giáo dục con người. Mục tiêu xây dựng con người Việt Nam toàn diện được cụ thể hóa bằng việc lồng ghép các giá trị đạo đức, kỹ năng sống ở mọi cấp học, chú trọng giáo dục hướng nghiệp thực chất.
Đến năm 2030, Nghị quyết đặt mục tiêu miễn học phí sách giáo khoa và có một bộ sách giáo khoa thống nhất trên cả nước, đồng thời đẩy mạnh dạy song ngữ, tiến tới coi tiếng Anh là ngôn ngữ thứ 2 trong nhà trường. Đặc biệt, việc phổ cập và ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số, trí tuệ nhân tạo (AI) trong dạy và học được nhấn mạnh như một yêu cầu tất yếu để nâng cao chất lượng giáo dục trong kỷ nguyên số.
Với những điểm đổi mới đột phá như vậy, có thể thấy Nghị quyết 71-NQ/TW đã định vị lại hệ thống giáo dục Việt Nam với tầm nhìn dài hạn, giải pháp toàn diện và định lượng rõ ràng, thể hiện tư duy chiến lược và khát vọng phát triển giáo dục lên một tầm cao mới.
PGS.TS. Trần Thành Nam - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội