Nghiên cứu yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư trái phiếu của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Nghiên cứu yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư trái phiếu của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán Việt Nam
2 giờ trướcBài gốc
TÓM TẮT:
Nghiên cứu này tập trung vào sự cấp thiết của việc hiểu rõ hành vi nhà đầu tư trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp. Nghiên cứu này đã cung cấp bằng chứng cho thấy quyết định đầu tư vào trái phiếu bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khác nhau, đó là: Sự tự tin cá nhân, Sự chấp nhận rủi ro, Tài chính, kiến thức tài chính, Thông tin thị trường và Tâm lý đám đông. Nghiên cứu chỉ ra rằng những người có tuổi đều có sự tự tin đáng kể ảnh hưởng không nhỏ đến quyết định và hiệu quả trong đầu tư. Từ đó đề xuất khuyến nghị cho nhà đầu tư cá nhân trong hoạt động đầu tư trái phiếu.
Từ khóa: đầu tư trái phiếu, nhà đầu tư cá nhân, quyết định đầu tư, thị trường chứng khoán Việt Nam.
1. Đặt vấn đề
Giai đoạn 2021-2023 ghi nhận sự biến động lớn của thị trường trái phiếu doanh nghiệp khi hoạt động phát hành bị đóng băng, hàng loạt vụ vỡ nợ, chậm thanh toán trái phiếu, đặc việt trái phiếu doanh nghiệp nhóm ngành Bất động sản đã khiến niềm tin của nhà đầu tư cá nhân sụt giảm nghiêm trọng. Trước hình hình đó, Chính phủ đã ban hành một số chính sách mới nhằm hỗ trợ sự phục hồi của thị trường trái phiếu doanh nghiệp. Có thể kế đến Nghị định số 08/2023/NĐ-CP ban hành ngày 5/03/2023 đã sửa đổi, bổ sung và tạm ngưng hiệu lực thi hành một số quy định tại Nghị định số 65/2022/NĐ-CP; Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 76/2024/TT-BTC, các điểm mới trong các văn bản mới ban hành đã tháo gỡ khó khăn cho chủ thể phát hành và nhà đầu tư cá nhân trong giải quyết nợ đọng, thanh khoản trái phiếu được phục hồi. Bên cạnh đó, với quy định mới, doanh nghiệp phát hành trái phiếu phải công khai, minh bạch toàn bộ thông tin từ giai đoạn chuẩn bị phát hành cho đến khi trái phiếu đang lưu hành. Cuối năm 2023-2025 ghi nhận dấu hiệu phục hồi, nhà đầu tư và doanh nghiệp phát hành đã trở lại thị trường, tháng 12/2024 giá trị trái phiếu doanh nghiệp phát hành thành công đạt 68,700 tỷ đồng tăng 5% với cùng kỳ năm 2023 và tăng 88% so với tháng 11/2024. Mặc dù có dấu hiệu phục hồi, nhưng quy mô thị trường hiện chỉ đạt 10-11% GDP, thấp hơn rất nhiều so với mục tiêu 20% GDP năm 2025 và 25% GDP vào năm 2030 của Chính phủ.
Nhà đầu tư cá nhân có vai trò thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam nói chung và thị trường trái phiếu nói riêng. Quyết định đầu tư của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững thị trường. Việc nghiên cứu các yếu tố tác động đến quyết định đầu tư trái phiếu của nhà đầu tư cá nhân có ý nghĩa quan trọng trong đề xuất ban hành quy định quản lý thị trường của cơ quan quản lý nhà nước nhằm minh bạch thị trường, củng cố niềm tin của nhà đầu tư, thúc đẩy thị trường trái phiếu doanh nghiệp phát triển bền vững.
2. Lý thuyết hành vi nhà đầu tư cá nhân và mô hình nghiên cứu đề xuất
Sự tự tin cá nhân
Sự quá tự tin mô tả trạng thái tâm lý mà các nhà đầu tư tin rằng họ sở hữu nhiều kiến thức hơn các nhà đầu tư khác (Shiller, 2005). Hầu hết các nhà đầu tư nhận thấy họ giỏi hơn các nhà đầu tư khác và xu hướng giả định này có thể gây ra tâm lý quá tự tin mà cuối cùng có thể dẫn đến giao dịch quá mức (Hayat, 2006). Bakar và Yi (2016) thấy rằng các quyết định của các nhà đầu tư bị ảnh hưởng đáng kể bởi sự tự tin thái quá. Hơn nữa, Longjie và Anfeng (2017) tìm thấy mối tương quan tích cực giữa sự tự tin thái quá và mức đầu tư vào thị trường chứng khoán. Dựa vào những thảo luận trên, tác giả đề xuất giả thuyết như sau:
H1: Sự tự tin cá nhân ảnh hưởng đến khuynh hướng ra quyết định đầu tư trái phiếu của nhà đầu tư cá nhân.
Sự chấp nhận rủi ro
Kahneman và Tversky (1979), Barberis và Huang(2001); Mayfield và cộng sự, (2008), nhận thức về rủi ro được đo lường bằng thái độ đối với rủi ro như chấp nhận rủi ro và ngại rủi ro. Trong một nghiên cứu về cách các nhà đầu tư chuyên nghiệp nhận thức và phản ứng với rủi ro đầu tư cho thấy trình độ học thức càng cao dẫn tới mức độ né tránh rủi ro càng thấp và thu nhập càng cao thì có mức độ tự tin càng thấp trong việc chấp nhận rủi ro (Lai và Tam, 2012). Khitoliya (2014) đánh giá mức độ nhận thức rủi ro của nhà đầu tư áp dụng vào bối cảnh các quỹ tương hỗ ở Dehli và đưa ra những phân tích về mức độ nhận thức rủi ro và mối quan hệ với quyết định đầu tư vào quỹ tương hỗ của nhà đầu tư Ấn Độ. Nhà đầu tư có nhận thức rủi ro càng cao họ càng hài lòng với quyết định đầu tư, lợi nhuận đạt được và ý định đầu tư vào những lần tiếp theo càng cao. Vì vậy, mục tiêu lợi nhuận kỳ vọng có tác động nhất định đến quyết định chấp nhận rủi ro của mỗi nhà đầu tư cá nhân (Duy Bùi, 2021). Như vậy, dựa trên các thảo luận nghiên cứu ý định đầu tư trước đó, tác giả đề xuất giả thuyết:
H2: Sự chấp nhận rủi ro ảnh hưởng đến quyết định đầu tư trái phiếu của nhà đầu tư cá nhân.
Kiến thức về tài chính
Nghiên cứu của Bhushan cũng chỉ ra rằng mức độ thông hiểu kiến thức tài chính của cá nhân tác động tới nhận thức cũng như lựa chọn đầu tư của họ. Glaser và Walther (2014) lập luận rằng hành vi của những cá nhân có kiến thức tài chính cao có thể phụ thuộc vào hệ thống suy nghĩ: trực giác và nhận thức. Kiến thức tài chính đã được chứng minh là một yếu tố có ảnh hưởng đáng kể đến ý định tham gia vào thị trường chứng khoán và nắm giữ cổ phiếu của các cá nhân. Nghiên cứu của Chu và cộng sự (2017) đã đánh giá tác động tiềm tàng của kiến thức tài chính lên sự lựa chọn danh mục đầu tư và lợi suất đầu tư của hộ gia đình. Kết quả nghiên cứu cho thấy những gia đình có mức thông hiểu tài chính cao hơn thường có xu hướng đầu tư thông qua chuyên gia và quỹ đầu tư. Đặc biệt, kiến thức tài chính tốt có thể giúp nhà đầu tư dự đoán được các biến động của thị trường chứng khoán và tự tin đưa ra các quyết định đầu tư hiệu quả hơn. Dựa vào các thảo luận trước đó, tác giả đề xuất giả thuyết nghiên cứu sau:
H3: Kiến thức tài chính ảnh hưởng đến khuynh hướng ra quyết định đầu tư trái phiếu của nhà đầu tư cá nhân.
Tiềm lực tài chính
Của cải tài chính có tác động tích cực và đáng kể đến việc lựa chọn danh mục đầu tư của cá nhân (Hiz, 1997). Trong nghiên cứu về tác động của các yếu tố nhân khẩu lên quyết định đầu tư, tác giả đã tìm ra mối quan hệ cùng chiều giữa thu nhập và khả năng chịu rủi ro (Jain, 2012). Nghiên cứu này hàm ý người có thu nhập càng cao có khả năng chấp thuận rủi ro càng lớn trong các khoản đầu tư. Arianti (2018) đo lường tác động của thông hiểu tài chính, hành vi tài chính và thu nhập tới quyết định đầu tư. Các nhà đầu tư các nhân thường bắt đầu đầu tư chứng khoán khi mà họ có nguồn thu nhập ổn định và có một nguồn tài chính dư giả để có thể bắt đầu vào việc đầu tư chứng khoán và họ nhận thấy được lợi nhuận từ việc đầu tư chứng khoán của mình. Họ có xu hướng mang tiền đi đầu tư để kiếm thêm nguồn thu nhập lớn cho chính bản thân mình. Dựa vào những kết luận trước đó tác giả đề xuất ra giả thuyết nghiên cứu như sau:
H4: Tiềm lực tài chính có ảnh hưởng đến quyết định đầu tư trái phiếu của nhà đầu tư cá nhân.
Thông tin về thị trường
Thông tin thị trường tác động không chỉ tới nhà đầu tư mới mà cả những nhà đầu tư có thâm niên (Hương, 2022). Thông tin thị trường được công bố bởi doanh nghiệp và các đơn vị truyền thông giúp cho các nhà đầu tư hiểu rõ về thị trường mà mình đang đầu tư để đưa ra các quyết định đầu tư vào thị trường này. Thị trường chứng khoán luôn thay đổi theo từng ngày vì thế các nhà đầu tư luôn chú ý đến sự biến đổi của thị trường chứng khoán mỗi ngày để đưa ra những quyết định kịp thời và chính xác. Các thị trường có thông tin rõ ràng, cập nhật thông tin nhanh chóng đáng tin cậy luôn là những thị trường mà các nhà đầu tư tin tưởng đầu tư. Bên cạnh đó, ý kiến của nhân viên tư vấn thuộc các công ty chứng khoán cũng rất quan trọng. Các nhà đầu tư thường lấy ý kiến từ các nhà đầu tư có kinh nghiệm, cũng như các nhân viên tư vấn từ các công ty tư vấn để có thể đưa ra được những quyết định đầu tư chính xác nhất. Dựa vào các thảo luận trước đó, tác giả đề xuất giả thuyết nghiên cứu sau:
H5: Thông tin thị trường có ảnh hưởng quyết định đầu tư trái phiếu của nhà đầu tư cá nhân.
Tâm lý đám đông
Tâm lý đám đông là tâm lý của các nhà đầu tư cá nhân theo xu hướng của thị trường. Điều này xảy ra khi nhiều người cùng thực hiện một hành động, vì vậy một số nhà đầu tư đã bắt chước hành động của nhà đầu tư khác trong việc đầu tư (Graham, 1999). Chính vì vậy, Chiang và Zheng (2010) khẳng định rằng, hiệu ứng đám đông có tác động tiêu cực đến thị trường chứng khoán và có thể gây ra biến động, bong bóng và chứng khoán bị đánh giá quá thấp. Tác động của hiệu ứng đám đông cũng có thể ảnh hưởng tiêu cực đến cơ chế cung và cầu của thị trường. Abul (2019) phát hiện ra rằng các nhà đầu tư nhỏ tham gia vào thị trường chứng khoán có xu hướng tuân theo hiệu ứng đám đông. Do đó, tác giả đề xuất giả thuyết như sau:
H6: Tâm lý đám đông ảnh hưởng ra quyết định đầu tư trái phiếu của nhà đầu tư cá nhân.
Mô hình nghiên cứu đề xuất
Dựa trên các kết quả tổng quan tài liệu nghiên cứu và cơ sở lý luận có liên quan đến đề tài, tác giả đã đề xuất mô hình nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới quyết định đầu tư trái phiếu của các nhà đầu tư cá nhân, bao gồm 6 nhân tố như sau: sự tự tin của cá nhân bao gồm biến ST1, ST2,ST3,ST4; tâm lý đám đông bao gồm biến DD1, DD2,DD3, DD4; sự chấp nhận rủi ro bao gồm biến RR1, RR2, RR3, RR4; thông tin về thị trường bao gồm biến TT1, TT2, TT3, TT4, TT5, TT6; tiềm lực tài chính bao gồm các biến TC1, TC2,TC3, TC4, TC5; kiến thức về tài chính bao gồm biến KT1, KT2, KT3, KT4, KT5.
Số lượng phiếu trả lời: 3364 phiếu, sau khi loại bỏ 2070 phiếu không hợp lệ, thu được 1294 phiếu, tương đương với 1294 nhà đầu tư cá nhân tại địa bàn TP. Hà Nội.
Phương pháp chọn mẫu: Phương pháp chọn mẫu phi ngẫu nhiên.
Cách thức chọn mẫu: tác giả phát phiếu điều tra gửi link khảo sát đến nhân viên môi giới tại chi nhánh Hà Nội của 4 công ty chứng khoán BVSC, VNDIRECT, Rồng Việt, SSI, sau đó chuyển tiếp cho những nhà đầu tư cá nhân đang giao dịch tại chi nhánh.
Kích thước mẫu 1294. Thang đo của các biến với 5 mức độ:
Mức 1: Rất không đồng ý
Mức 2: Không đồng ý
Mức 3: Trung lập
Mức 4: Đồng ý
Mức 5: Rất đồng ý
3. Kết quả nghiên cứu
3.1. Kết quả đánh giá sơ bộ thang đo danh mục bảng kết quả kiểm định Cronbach’s Alpha
Sau khi kiểm tra độ tin cậy 34 biến quan sát của 7 yếu tố, kết quả cho thấy hệ số Cronbach’s Alpha đều lớn hơn hệ số Cronbach’s Alpha tiêu chuẩn là 0.6, đồng thời các biến quan sát đều có hệ số tương quan tổng - biến (Corrected Item - Total Correlation) phù hợp (> 0.3), vì thế tất cả các biến đều đạt yêu cầu và sẽ được sử dụng phân tích trong tiếp theo.
Phân tích nhân tố khám phá - EFA:
Phân tích khám phá nhằm tìm hiểu các thành phần cấu thành nên các khái niệm từ dữ liệu thu thập được. Với cách phân tích này, các biến được tự do tải lên các nhân tố và dựa vào hệ số tải (hệ số tương quan giữa biến và nhân tố) để xác định xem biến nào giải thích cho khái niệm nào.
Phân tích EFA với biến độc lập:
Trong bước này, 28 biến quan sát đại diện cho 6 biến độc lập sẽ được phân tích EFA chung với phép trích Principle Component và phép xoay Varimax. Kết quả phân tích nhân tố khám phá như mô tả tại Bảng 1.
Bảng 1. Hệ số KMO và kiểm định Bartlett của các biến độc lập
Nguồn: Kết quả xử lý số liệu trên phần mềm SPSS
Thước đo KMO = 0,898 thỏa mãn điều kiện 0,5 ≤ KMO ≤ 1 cho thấy phân tích nhân tố là phù hợp với dữ liệu thực tế.
Kết quả kiểm định Bartlett’s Test có giá trị Sig. = 0,000 < 0,05, như vậy có thể kết luận là các biến quan sát có tương quan với nhau trong mỗi nhân tố.
Bên cạnh đó, dựa vào bảng Phương sai các biến độc lập, cho thấy 28 biến quan sát ban đầu được nhóm thành 6 nhóm.
Eigenvalues = 1.344 >1 đại diện cho phần biến thiên được giải thích bởi mỗi nhân tố, thì nhân tố rút ra có ý nghĩa tóm tắt thông tin tốt nhất. Giá trị tổng phương sai trích = 64.705% > 50%: đạt yêu cầu; khi đó có thể nói rằng 6 nhân tố này giải thích 64.705% biến thiên của dữ liệu.
Kết quả phân tích nhân tố khám phá EFA đã rút trích được 6 nhóm từ các biến quan sát tương ứng với 6 yếu tố ảnh hưởng đến khuynh hướng ra quyết định đầu tư chứng khoán của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Dựa vào kết quả, cho thấy các biến có hệ số tải nhân tố đều lớn hơn 0,5, trong đó biến có giá trị nhỏ nhất là TC3 = 0,539 và biến đạt giá trị lớn nhất là RR4 = 0,866; trong 28 biến quan sát được trích thành 6 nhóm nhân tố đại diện. Bao gồm: thông tin thị trường, kiến thức tài chính, sự chấp nhận rủi ro, hiệu ứng đám đông, tài chính và sự tự tin cá nhân.
Phân tích EFA với biến phụ thuộc:
Bảng 2. Hệ số KMO và kiểm định Bartlett của biến phụ thuộc KMO và Bartlett’s Test
Nguồn: Kết quả xử lý số liệu trên phần mềm SPSS
Thước đo KMO = 0,844 thỏa mãn điều kiện 0,5 ≤ KMO ≤ 1, cho thấy phân tích nhân tố là phù hợp với dữ liệu thực tế. (Bảng 2)
Kết quả kiểm định Bartlett’s Test có giá trị Sig. = 0,000 < 0,05, như vậy có thể kết luận là các biến quan sát có tương quan với nhau trong mỗi nhân tố.
Dựa vào bảng phương sai biến phụ thuộc (Bảng 3), thang đo chỉ ra quyết định đầu tư chứng khoán của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán Việt Nam đã trích 1 nhân tố từ 6 biến quan sát với phương sai trích tích lũy được là 50.394%, các hệ số tải nhân tố đều lớn hơn 0,5.
Từ đó, đưa ra kết luận, 50.394% thay đổi của các nhân tố được giải thích bởi các biến quan sát.
3.2. Phân tích tương quan Pearson
Bảng 4. Tương quan Pearson
Nguồn: Kết quả xử lý số liệu trên phần mềm SPSS
Sig tương quan Pearson các biến độc lập TTtb, TCtb, KTtb, DDtb, RRtb, STtb với biến phụ thuộc QDtb nhỏ hơn 0,05. Như vậy có mối liên hệ tuyến tính giữa các biến độc lập này với biến QDtb. (Bảng 4)
Mô hình hồi quy
Để kiểm định mô hình nghiên cứu, tác giả tiến hành phân tích hồi quy để kiểm định các giả thuyết. Kết quả phân tích hồi quy sẽ cho thấy được mức độ ảnh hưởng của các yếu tố “Sự tự tin của cá nhân (ST)”, “Tài chính (TC)”, “Thông tin thị trường (TT)”, Tâm lý đám đông (DD), “Sự chấp nhận rủi ro (RR)”, “Kiến thức tài chính (KT)” đến “Quyết định đầu tư chứng khoán (QD)”.
Phân tích hồi quy được thực hiện với mức ý nghĩa 5%, với thủ tục chọn biến là đưa vào một lượt (enter). Khi xem xét mô hình thể hiện mối liên hệ tương quan tuyến tính giữa biến phụ thuộc và 6 biến độc lập, ta xây dựng phương trình hồi quy tuyến tính chuẩn hóa như sau:
QD= β1* STtb + β2 *DDtb+ β3*RRtb+ β4*TTtb + β5 *TCtb + β6 * KTtb + Ei
Hồi quy đa biến
Bảng 5. Hồi quy đa biến
Nguồn: Kết quả xử lý số liệu trên phần mềm SPSS
Bảng hồi quy đa biến (Bảng 5) cho chúng ta kết quả R bình phương và R bình phương hiệu chỉnh để đánh giá mức độ phù hợp của mô hình. Giá trị R bình phương hiệu chỉnh phản ánh mức độ ảnh hưởng của các biến độc lập lên biến phụ thuộc. Cụ thể ở đây hệ số R^2 điều chỉnh đạt được bằng 0,621, nghĩa là mô hình có thể giải thích được 62,1% cho tổng thể các mối liên hệ ảnh hưởng đến “Quyết định đầu tư chứng khoán (QD)”, còn lại 37,9% là do sự ảnh hưởng của các biến ngoài mô hình và do sai số ngẫu nhiên.
Kết quả Bảng 5 cũng đưa ra giá trị Durbin - Watson dùng để đánh giá hiện tượng tự tương quan chuỗi bậc nhất. Ở phần kiểm định này ta nhận thấy các sai số không có tương quan chuỗi bậc nhất với nhau vì giá trị DW = 1,866, (nằm trong khoảng 1,5-2,5) nên kết quả không vi phạm giả định tự tương quan chuỗi bậc nhất. Giá trị này có thể thay đổi khi ta thay đổi vị trí thứ tự các bảng sắp xếp các quan sát trong tập dữ liệu quan sát.
Kết quả từ bảng ANOVA cho thấy, trị số Flab 77,874 có mức ý nghĩa với Sig. rất nhỏ (Sig. = 0,000 < 0,05), có nghĩa mô hình hồi quy sử dụng trong nghiên cứu này phù hợp với dữ liệu thực tế thu thập được, cũng như đưa nó vào mô hình đều có ý nghĩa và mức độ tin cậy của mô hình là hoàn toàn tin cậy được. (Bảng 6)
Bảng 6. Hệ số hồi quy
Nguồn: Kết quả xử lý số liệu trên phần mềm SPSS
Từ các hệ số hồi quy, chúng ta xây dựng được hai phương trình hồi quy chuẩn hóa:
QDtb = 0,297*STtb + 0,128*DDtb+ 0,124*RRtb + 0,157*TTtb+ 0,226*TCtb + 0,168*KTtb
Trong đó:
QDtb: Biến phụ thuộc
STtb, DDtb, RRtb, TTtb, TCtb, KTtb: Các biến độc lập
Từ kết quả phân tích hồi quy cũng cho thấy cả 6 nhân tố: “Sự tự tin của cá nhân (ST)”, Thông tin thị trường (TT), Hiệu ứng đám đông (DD), “Sự chấp nhận rủi ro (RR)”, “Tài chính (TC)”, “Kiến thức tài chính (KT)” có mức ý nghĩa nhỏ hơn 0,05 nên có ý nghĩa về mặt thống kê.
Với hệ số Beta chuẩn hóa là 0.297, Yếu tố Sự tự tin cá nhân (ST) có ảnh hưởng lớn nhất tới việc khuynh hướng ra quyết định đầu tư chứng khoán của các nhà đầu tư chứng khoán cá nhân trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Dấu dương (+) của hệ số Beta thể hiện mối quan hệ cùng chiều. Kết quả hồi quy cho thấy hệ số Beta là 0.297 và Sig = 0.000 (<0.05).
Với hệ số Beta chuẩn hóa là 0.226, Yếu tố Tài chính (TC) có ảnh hưởng lớn nhất tới khuynh hướng ra quyết định đầu tư chứng khoán của các nhà đầu tư chứng khoán cá nhân trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Dấu dương (+) của hệ số Beta thể hiện mối quan hệ cùng chiều. Kết quả hồi quy cho thấy hệ số Beta là 0.226 và Sig = 0.000 (<0.05).
Với hệ số Beta chuẩn hóa là 0.168, Yếu tố Kiến thức tài chính (KT) có ảnh hưởng lớn nhất tới khuynh hướng ra quyết định đầu tư chứng khoán của các nhà đầu tư chứng khoán cá nhân trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Dấu dương (+) của hệ số Beta thể hiện mối quan hệ cùng chiều. Kết quả hồi quy cho thấy hệ số Beta là 0.297 và Sig = 0.000 (<0.05).
Với hệ số Beta chuẩn hóa là 0.157, Yếu tố Thông tin thị trường (TT) có ảnh hưởng lớn nhất tới khuynh hướng ra quyết định đầu tư chứng khoán của các nhà đầu tư chứng khoán cá nhân trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Dấu dương (+) của hệ số Beta thể hiện mối quan hệ cùng chiều. Kết quả hồi quy cho thấy hệ số Beta là 0.157 và Sig = 0.000 (<0.05).
Với hệ số Beta chuẩn hóa là 0.128, Yếu tố Tâm lý đám đông (DD) có ảnh hưởng lớn nhất tới khuynh hướng ra quyết định đầu tư chứng khoán của các nhà đầu tư chứng khoán cá nhân trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Dấu dương (+) của hệ số Beta thể hiện mối quan hệ cùng chiều. Kết quả hồi quy cho thấy hệ số Beta là 0.128 và Sig = 0.000 (<0.05).
Với hệ số Beta chuẩn hóa là 0.124, Yếu tố Sự chấp nhận rủi ro (RR) có ảnh hưởng lớn nhất tới khuynh hướng ra quyết định đầu tư chứng khoán của các nhà đầu tư chứng khoán cá nhân trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Dấu dương (+) của hệ số Beta thể hiện mối quan hệ cùng chiều. Kết quả hồi quy cho thấy hệ số Beta là 0.124 và Sig = 0.000 (<0.05).
Như vậy, tất cả các biến đều tác động cùng chiều với biến phụ thuộc, trong đó: biến Sự tự tin cá nhân tác động mạnh nhất đến khuynh hướng ra quyết định đầu tư chứng khoán của nhà đầu tư cá nhân. Biến “Tài chính” tác động mạnh thứ 2 đến khuynh hướng ra quyết định đầu tư. Và biến “Sự chấp nhận rủi ro” tác động ít nhất đến khuynh hướng ra quyết định đầu tư.
Sau một thời gian điều tra, phân tích kết quả từ số phiếu khảo sát thu được cho thấy các yếu tố ảnh hưởng đến khuynh hướng ra quyết định đầu tư trái phiếu bao gồm: ảnh hưởng từ sự tự tin cá nhân, ảnh hưởng từ tài chính, ảnh hưởng từ thông tin thị trường, ảnh hưởng từ kiến thức tài chính, ảnh hưởng từ sự chấp nhận rủi ro, ảnh hưởng từ tâm lý đám đông. Phần chạy Cronbach’s Alpha cho thấy các thang đo đều đạt được sự tin cậy.
Tác giả đã sử dụng thêm phương pháp nghiên cứu sơ bộ là phương pháp nghiên cứu định tính bên cạnh nghiên cứu chính thức sử dụng phương pháp định lượng. Nhờ đó, tác giả đã tiếp cận các nhà đầu tư cá nhân một cách tự nhiên nhất, nhằm đảm bảo những hành vi, ý kiến, quan điểm của họ về yếu tố ảnh hưởng đến khuynh hướng ra quyết định đầu tư chứng khoán là khách quan và chính xác nhất.
Thông qua kết quả dữ liệu định lượng đã phân tích, tất cả các yếu tố đề xuất đều có ảnh hưởng đến khuynh hướng ra quyết định đầu tư cá nhân và cường độ của các yếu tố đó lần lượt là “Sự tự tin của cá nhân (ST)”, “Tài chính (TC)”,“Kiến thức tài chính (KT)”, “Thông tin thị trường (TT)”, “Tâm lý đám đông (DD)”, “Sự chấp nhận rủi ro (RR)”.
Nghiên cứu này sử dụng mô hình hồi quy để phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến khuynh hướng ra quyết định đầu tư trái phiếu của nhà đầu tư cá nhân trên TTCK. Kết quả phân tích định lượng các biến của mô hình nghiên cứu cho thấy 6 biến có ý nghĩa thống kê ở mức 5% là “Thông tin thị trường”, “Sự chấp nhận rủi ro”, “Tâm lý đám đông”, “Tài chính”, “Kiến thức tài chính”, “Sự tự tin cá nhân”. Kết quả phân tích mô hình cho thấy các biến trên đều có ảnh hưởng và tác động cùng chiều tới quyết định đầu tư trái phiếu của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Tương tự, kết quả phân tích định tính, cũng đưa ra kết quả tương tự rằng: Có 6 nhóm yếu tố tác động đến quyết định đầu tư chứng khoán của nhà đầu tư cá nhân. Do đó, nhà đầu tư cá nhân cần nghiên cứu, phân tích tình hình một cách cẩn trọng để có thể đưa ra quyết định đầu tư chính xác và hợp lý.
4. Khuyến nghị đối với nhà đầu tư cá nhân
Nhà đầu tư cần thu thập tìm kiếm những dữ liệu về giá để lọc theo những tiêu chí mình đề ra, qua đó đánh giá xu hướng giá của cổ phiếu và nhận định nguyên nhân tăng giảm giá cổ phiếu, từ đó đưa ra dự đoán giá cổ phiếu trong tương lai. Các nhà đầu tư cá nhân cần phải hiểu được những yếu tố ảnh hưởng đến thị giá cổ phiếu, để từ đó đưa ra những quyết định về đầu tư mang đến cho mình những lợi nhuận lớn nhất.
Trang bị những kiến thức cơ bản về chứng khoán khi tham gia vào thị trường chứng khoán dựa trên chính sách chia cổ tức
Đầu tư tài chính là những hoạt động thực hiện trong lĩnh vực tài chính vốn đòi hỏi hàm lượng kiến thức rất cao, vì vậy, tùy vào phương pháp tiếp cận của nhà đầu tư mà đòi hỏi các kiến thức khác nhau nhưng theo tác giả, kiến thức cơ bản về tài chính và kinh doanh vẫn quan trọng nhất. Nhà đầu tư tối thiểu phải có hiểu biết về thị trường tài chính, về bản chất công cụ vốn của cổ phiếu, trái phiếu, chứng khoán phái sinh... trước khi tham gia vào đầu tư. Quan trọng nhất đó chính là nhà đầu tư phải nhận thức được rủi ro của công cụ vốn để từ đó có cách thức tiếp cận phù hợp khi tham gia đầu tư.
Nhà đầu tư cần hết sức lưu ý, lãi suất cao sẽ đi kèm với rủi ro cao, do đó phải hết sức thận trọng đánh giá kỹ về các rủi ro trước khi quyết định mua trái phiếu. Trái phiếu cần được đánh giá, phân tích trên các khía cạnh về lĩnh vực hoạt động, doanh nghiệp phát hành, tình hình tài chính, mục đích sử dụng vốn, chất lượng tài sản bảo đảm cũng như các điều kiện, điều khoản của trái phiếu.
Nhà đầu tư cần lưu ý lợi nhuận luôn đi kèm với rủi ro, vì thế cần đầu tư theo “khẩu vị rủi ro” của mình; phải xác định rõ mục đích đầu tư, không dùng đòn bẩy quá nhiều; tránh tâm lý “bầy đàn”, theo phong trào… Khó khăn chung của thị trường với nhiều rủi ro, bất định gia tăng, các nhà đầu tư cần đa dạng hóa danh mục, hạn chế sử dụng đòn bẩy tài chính cao, hạn chế tâm lý đám đông, tìm kênh trú ẩn an toàn thay vì lướt sóng ngắn hạn...
Theo chuyên gia, nhà đầu tư cần đa dạng hóa danh mục, hướng đến đầu tư dài hạn, thay vì lướt sóng. Tùy mục tiêu, mức vốn và khẩu vị rủi ro mà nhà đầu tư có thể quyết định bản thân nên đầu tư vào kênh nào. Nhà đầu tư cần phải nắm rõ tình hình tài chính của mình trước khi có quyết định đầu tư; đặt các mục tiêu về lợi nhuận, thua lỗ; khả năng chịu đựng của mình. Đặc biệt, hết sức lưu ý về những biến động của các yếu tố vĩ mô như lãi suất, tỷ giá… và cần kiểm soát dòng tiền, tính thanh khoản trong quá trình đầu tư của mình.
Hạn chế tâm lý đám đông, mua bán bằng mọi giá
Các nhà đầu tư nên hạn chế đầu tư theo cảm xúc, cảm tính bởi đầu tư không có chỗ dành cho cảm xúc. Đối với đầu tư chứng khoán, nhà đầu tư cần hết sức bình tĩnh, không nên rơi vào vòng xoáy bán lấy được, không dựa vào tin đồn thất thiệt, tâm lý đám đông mà cần kiểm chứng, nắm bắt sát tình hình và triển vọng, các yếu tố cơ bản của doanh nghiệp. Đa dạng hóa kênh đầu tư, hạn chế đòn bẩy và kiên trì nâng cao kiến thức, kinh nghiệm đầu tư là rất cần thiết. Khi ra quyết định đầu tư cũng cần kiên định với các đánh giá của mình, không bị phân tán bởi các thông tin không chính thống, tin đồn thất thiệt.
Nhà đầu tư cần nghiên cứu kỹ trước khi đầu tư, tìm hiểu càng nhiều càng tốt. Trong đó, cần tập trung vào những kiến thức cơ bản cần thiết, tránh tình trạng thiếu hiểu biết hoặc hiểu không đầy đủ về kiến thức tài chính; học nhiều tài liệu liên quan; tích cực tham dự các hội thảo do các đơn vị uy tín tổ chức; tham khảo các lời khuyên, lời tư vấn một cách có chọn lọc. Đồng thời, nhà đầu tư cũng cần học hỏi kinh nghiệm, thất bại của người đi trước, chuẩn bị kỹ các tình huống nhằm phòng tránh những cạm bẫy và rủi ro trong quá trình đầu tư. Đặc biệt, đối với nhà đầu tư mới, có thể bắt đầu với những khoản đầu tư nhỏ để nắm bắt, hiểu biết về cách thức đầu tư, hoạt động của thị trường, trước khi đưa ra quyết định lớn hơn. Như vậy, theo thời gian, sẽ từng bước tích lũy được kiến thức, kinh nghiệm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Tiếng Việt
Nguyễn Đình Toàn, Nguyễn Hương Giang, Nguyễn Kim Anh, Đỗ Diệu Linh, Trịnh Thành Đạt & Mai Trung Hiếu (2022), Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định đầu tư chứng khoán của nhà đầu tư cá nhân tại Việt Nam trong bối cảnh đại dịch covid, Hue University Journal of Science: Economics and Development, 131(5A), 129-150.
Nguyễn Thị Mai Hương, Phạm Thị Trà My & Nguyễn Thị Lan Anh (2022), Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư chứng khoán của nhà đầu tư cá nhân mới trên thị trường chứng khoán Việt Nam, TNU Journal of Science and Technology, 227(09), 259-267.
Nguyễn Thị Ngọc Linh (2013), Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư chứng khoán của nhà đầu tư cá nhân tại TP. Hồ Chi Minh.
Võ Thị Hiếu, Bùi Hữu Phước & Bùi Nhất Vương (2020), Tác động của các yếu tố hành vi đến quyết định và hiệu quả đầu tư của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh.
Tiếng Anh
Abul, Sadeq J. (2019), Factors influencing Individual Investor Behaviour Evidence from the Kuwait Stock Exchange, Asian Social Science, 15(3), 27-39.
Ajzen, Icek (2002), Perceived behavioral control, self‐efficacy, locus of control, and the theory of planned behavior 1, Journal of applied social psychology, 32(4), 665-683.
Arianti, Baiq Fitri (2018), The influence of financial literacy, financial behavior and income on investment decision, Economics and Accounting Journal, 1(1), 1-10.
Aziz, Bilal & Muhammad Abdullah khan (2016), Behavioral factors influencing individual investor’s investment decision and performance, Evidence from Pakistan Stock Exchange, International journal of research in finance and marketing, 6(7), 74-86.
Bhushan, Puneet (2014), Relationship between financial literacy and investment behavior of salaried individuals, Journal of Business Management & Social Sciences Research (JBM&SSR) 3.5: 82-87.
Bui Duy Linh, Le Trung Chi, Huynh Ngoc Quang Anh & Wing-Keung Wong (2021), Determinants of the possibilities by investors’ risk-taking: empirical evidence from Vietnam, Cogent Economics & Finance, 9(1), 1917106.
Chu, Zhong, Zhengwei Wang, Jing Jian Xiao & Weiqiang Zhang (2017), Financial literacy, portfolio choice and financial well-being, Social Indicators Research, 13.
Farooq, Aisha & Muhammad Sajid (2015), Factors affecting investment decision making: Evidence from equity fund managers and individual investors in Pakistan, Research Journal of Finance and Accounting, 6(9), 2222-1697.
Determinants of individual investment decisions in Vietnam’s corporate bond market
Phung Viet Ha
Chu Ba Quyet
ABTRACT:
This study explores the urgent need to understand investor behavior in the corporate bond market, particularly in the context of growing individual participation. It presents empirical evidence that bond investment decisions are shaped by a combination of factors, including investor confidence, risk tolerance, financial literacy, access to market information, and herd behavior. The findings reveal that older investors tend to exhibit higher levels of confidence, which significantly influences both their investment choices and outcomes. Based on these insights, the study proposes practical recommendations aimed at enhancing the effectiveness of individual investment strategies in the corporate bond market.
Keywords: bond investment, individual investors, investment decisions, Vietnam’s stock market.
[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 20 năm 2025]
Tạp chí Công Thương
Nguồn Tạp chí Công thương : https://tapchicongthuong.vn/nghien-cuu-yeu-to-anh-huong-den-quyet-dinh-dau-tu-trai-phieu-cua-nha-dau-tu-ca-nhan-tren-thi-truong-chung-khoan-viet-nam-265620.htm