Ngoại ngữ trong trường đại học: Tín chỉ hay chứng chỉ quốc tế?

Ngoại ngữ trong trường đại học: Tín chỉ hay chứng chỉ quốc tế?
2 giờ trướcBài gốc
ThS Phạm Thái Sơn - Giám đốc Trung tâm Tuyển sinh và Truyền thông, Trường Đại học Công Thương TPHCM trao đổi cùng sinh viên. Ảnh: NVCC
Mỗi chính sách đều tác động trực tiếp đến quyền lợi người học, chất lượng đào tạo và tính toàn vẹn của tổng số tín chỉ mà một cử nhân/ kỹ sư phải hoàn thành.
Áp lực ngoại ngữ đè nặng
L.H.T., một sinh viên 20 tuổi quê Lâm Đồng đang theo học tại một trường đại học ở TPHCM, cho biết em đã đầu tư nhiều thời gian và chi phí để đạt chứng chỉ IELTS 6.5, cao hơn đáng kể so với chuẩn đầu ra B1 của trường. Dù vậy, T. vẫn có khả năng phải học lại các môn Tiếng Anh giao tiếp cơ bản - điều mà em cho là lãng phí thời gian lẫn công sức. Hiện trường của T. áp dụng 1 trong 3 phương án xử lý 9-12 tín chỉ ngoại ngữ: Miễn học và chuyển đổi điểm, bắt buộc học, hoặc công nhận chuẩn đầu ra nhưng yêu cầu học bù các học phần tự chọn khác.
“Phương án chuyển điểm có vẻ lý tưởng vì giúp em tiết kiệm được thời gian, nhưng em nghe nói cách làm này vẫn tiềm ẩn rủi ro pháp lý do Bộ GD&ĐT chưa có hướng dẫn cụ thể”, T. chia sẻ. Nếu chọn phương án an toàn hơn là công nhận chuẩn đầu ra và học bù các môn tự chọn để tích lũy đủ 120 tín chỉ, T. vẫn phải học thêm 3-4 học phần khác. Điều này khiến em cảm thấy những nỗ lực bỏ ra để lấy chứng chỉ ngoại ngữ không thực sự được ghi nhận. “Dù có chứng chỉ rồi, em vẫn không biết nên đi theo hướng nào để vừa hợp quy chế vừa tối ưu nhất cho quá trình học đại học”, T. nói.
Thực tế, hầu hết trường đại học thiết kế 9-12 tín chỉ ngoại ngữ nhằm bảo đảm sinh viên đạt chuẩn B1 đối với hệ cử nhân và B2 đối với hệ kỹ sư. Tuy nhiên, chính sách công nhận chứng chỉ quốc tế lại thiếu đồng nhất, khiến sinh viên bối rối khi lựa chọn lộ trình học phù hợp. Theo PGS.TS Trần Hoài An - Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng Học viện Hàng không Việt Nam, phương thức miễn học và chuyển đổi điểm, công nhận chứng chỉ quốc tế tương đương với các học phần tiếng Anh trong chương trình khuyến khích sinh viên chủ động học và thi chứng chỉ quốc tế, đồng thời giúp họ tích lũy đủ tín chỉ tốt nghiệp.
Phương thức thứ hai là bắt buộc sinh viên học toàn bộ các học phần ngoại ngữ do trường tổ chức, nhằm bảo đảm kiểm soát quá trình đào tạo và chuẩn đầu ra. Phương thức thứ ba là công nhận chuẩn đầu ra nhưng không tính tín chỉ. Nghĩa là chứng chỉ quốc tế chỉ được dùng để xét đạt chuẩn ngoại ngữ, còn tín chỉ sẽ phải bù bằng các môn tự chọn khác. Cách này an toàn về mặt pháp lý nhưng không giảm tải được thời gian học của sinh viên.
Theo ông An, trong 3 phương thức trên, miễn học và chuyển đổi điểm là lựa chọn được nhiều sinh viên có chứng chỉ quốc tế ưa chuộng nhất vì rút ngắn thời gian học. Ngược lại, phương thức bắt buộc học gây bức xúc, bởi những sinh viên có trình độ cao vẫn phải học lại kiến thức dưới năng lực của họ.
Ảnh minh họa INT.
Đề xuất tối ưu hóa lộ trình ngoại ngữ
Theo ThS Phạm Thái Sơn - Giám đốc Trung tâm Tuyển sinh và Truyền thông, Trường Đại học Công Thương TPHCM cho rằng cần tách bạch rõ hai loại tiếng Anh trong chương trình đào tạo: Tiếng Anh giao tiếp và tiếng Anh chuyên ngành.
Theo ông, tiếng Anh giao tiếp có thể linh hoạt công nhận từ các chứng chỉ quốc tế tương đương chuẩn B1 theo quy định. Sinh viên có thể tự học và thi bên ngoài hoặc tại trường; nếu đạt B1 sẽ được miễn học và quy đổi điểm tương ứng. Điều này vừa khuyến khích sự chủ động của người học vừa tiết kiệm chi phí vì học phí tại trường thường thấp hơn nhiều so với các trung tâm tư nhân.
Trong khi đó, tiếng Anh chuyên ngành bắt buộc phải học, bởi nội dung gắn chặt với đặc thù của ngành nghề và đòi hỏi cách hiểu thuật ngữ chuyên sâu mà chứng chỉ giao tiếp không thể thay thế. “Các trường đại học hiện nay tập trung vào tiếng Anh chuyên ngành. Còn tiếng Anh giao tiếp thì tùy nhu cầu của sinh viên, nếu cần trường sẽ tổ chức giảng dạy”, ThS Sơn cho biết.
Dù phương thức miễn học và chuyển đổi điểm mang lại sự linh hoạt lớn, PGS.TS Trần Hoài An nhấn mạnh rủi ro pháp lý vẫn còn đó. Theo ông, hạn chế lớn nhất của phương án này là thiếu cơ sở pháp lý rõ ràng. Các quy định về tiêu chuẩn giảng viên trong Thông tư 17/2021/TT-BGDĐT và Thông tư 40/2022/TT-BGDĐT yêu cầu giảng viên đại học phải có trình độ thạc sĩ trở lên cùng nhiều tiêu chuẩn nghề nghiệp khác.
Trong khi đó, giảng viên tại các trung tâm ngoại ngữ không thuộc trường đại học thường không đáp ứng được yêu cầu này, khiến việc chuyển đổi điểm trở nên khó bảo đảm tính pháp lý. Ngoài ra, Điều 13 Thông tư 08/2021/TT-BGDĐT về công nhận kết quả học tập và chuyển đổi tín chỉ được đánh giá là chưa rõ ràng, đặc biệt về chuyển đổi điểm từ các đơn vị không phải cơ sở giáo dục đại học.
Sự thiếu nhất quán này khiến nhiều trường chọn phương thức công nhận chuẩn đầu ra nhưng không tính tín chỉ và yêu cầu sinh viên học bù các môn tự chọn. Dù an toàn về quy chế, đây lại là phương án không tối ưu cho người học và làm giảm động lực theo đuổi các chứng chỉ quốc tế.
Để tháo gỡ mâu thuẫn giữa sự linh hoạt của chứng chỉ quốc tế và yêu cầu bảo đảm tín chỉ trong chương trình đại học, PGS.TS Trần Hoài An đề xuất cần có sự điều chỉnh từ Bộ GD&ĐT. Trước hết, Điều 13 Thông tư 08/2021/TT-BGDĐT cần được làm rõ, quy định cụ thể về việc chuyển đổi điểm từ những chứng chỉ quốc tế được công nhận sang các học phần ngoại ngữ trong chương trình đào tạo. Trong thời gian chờ sửa đổi chính sách, phương thức công nhận chuẩn đầu ra nhưng không tính tín chỉ vẫn có thể coi là giải pháp an toàn nhất để bảo vệ quyền lợi sinh viên.
Bên cạnh đó, các trường cần tiếp tục nâng cao chất lượng giảng dạy tiếng Anh chuyên ngành và phân loại sinh viên theo trình độ đầu vào như A1, A2 hoặc A3 để thiết kế lộ trình học phù hợp, bảo đảm chất lượng đầu ra đúng yêu cầu chuyên môn. “Chỉ khi quy định về công nhận tín chỉ trở nên rõ ràng và thống nhất, sinh viên mới an tâm đầu tư vào chứng chỉ quốc tế và các trường mới có thể vận dụng chính sách linh hoạt mà vẫn bảo đảm tính toàn vẹn của chương trình đào tạo theo khung trình độ quốc gia”, PGS.TS Trần Hoài An nhấn mạnh.
Theo quy định của Bộ GD&ĐT, chuẩn đầu ra ngoại ngữ được xác định theo Khung trình độ quốc gia Việt Nam ban hành năm 2016 (số 1982/QĐ-TTg). Theo đó, yêu cầu với người có bằng đại học là năng lực ngoại ngữ bậc 3/6 theo Khung năng lực ngoại ngữ của Việt Nam (tương đương trình độ B1 theo khung châu Âu). Bằng B1 đang là mức tối thiểu được phần lớn cơ sở giáo dục đại học dùng để xét đầu ra ngoại ngữ.
Lâm Ngọc
Nguồn GD&TĐ : https://giaoducthoidai.vn/ngoai-ngu-trong-truong-dai-hoc-tin-chi-hay-chung-chi-quoc-te-post757614.html