Ngôi nhà sàn của bác sĩ Yersin ở Nam Tây Nguyên

Ngôi nhà sàn của bác sĩ Yersin ở Nam Tây Nguyên
3 giờ trướcBài gốc
Tôi may mắn được gặp ngôi nhà ấy rất sớm - ngày 5.11.1975, khi đoàn chúng tôi trên đường đi tìm cây giống thông ta (Pinus merkusii) để trồng rừng cảnh quan núi Ngự Bình - Huế, công trình của cả nước trên đất cố đô sau ngày đất nước thống nhất. Xe dừng ở Trạm Thực nghiệm Lâm học Lang Hanh, một cơ sở nhỏ nằm bên quốc lộ 20, nhưng là nơi duy nhất ở miền Nam khi đó có gieo ươm thông ta.
Trụ sở Trạm là một ngôi nhà sàn mái ngói, có trần và sàn gỗ, chia ba phòng, vách ván, đặt trên những hàng cột bê tông cao. Hành lang và ban công mở ra nhiều hướng, cầu thang gỗ dẫn lên gian giữa có mái che, cửa nắp chống thú dữ. Từng chi tiết đều gọn gàng, tinh tế, vừa tiện nghi vừa hài hòa với thiên nhiên.Giữa rừng xanh, ngôi nhà ấy hiện ra thanh thoát, vừa mang phong vị kiến trúc thuộc địa, vừa đượm chất Tây Nguyên.
Thấy chúng tôi đứng ngắm mãi, một người đàn ông lớn tuổi trong Trạm, khoảng ngoài năm mươi, khuôn mặt chữ điền phúc hậu, đến gần nói: “Đấy là ngôi nhà của bác sĩ Yersin!”. Câu nói ấy khiến tôi bâng khuâng lạ lùng. Cái tên Yersin như chạm vào ký ức xa xăm về vị bác sĩ cả đời cống hiến cho khoa học và đất nước này. Chạnh nhớ: ở Hà Nội quê tôi, con đường Yersin ngắn ngủi nối Viện Pasteur danh tiếng với phố Lò Đúc - nơi của những người thợ thuyền. Nên một nhà văn từng ví von: “Yersin như chiếc cầu nối giữa khoa học uyên bác và giới cần lao”.
Nhiều năm sau, đầu thập niên 1980, khi được Bộ Lâm nghiệp điều về phụ trách Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Lâm sinh Lâm Đồng, cơ quan cấp trên của các trạm Lang Hanh và Măng Lin, tôi lại có dịp thường xuyên đến ở và làm việc trong chính ngôi nhà sàn ấy. Mỗi lần dừng chân, tôi luôn có cảm giác trở lại một vùng không gian xưa, nơi từng vang lên bước chân của các nhà khoa học tiên phong.
Ngôi nhà sàn của bác sĩ Yersin hiện nay.
Theo những tài liệu còn lưu lại, từ năm 1917, bác sĩ Alexandre Yersin bắt đầu di thực cây canh ki na - tên khoa học Cinchona succirubra - loài cây quý cho vỏ chứa hoạt chất ký ninh chữa sốt rét, căn bệnh quái ác đang hoành hành dữ dội ở Đông Dương và nhiều nơi trên thế giới, cướp đi sinh mệnh hàng triệu người. Ông đã bố trí những thí nghiệm có hệ thống ở Hòn Bà Nha Trang (độ cao 1.500m so với mặt biển) và cùng nhà thực vật học Chevalier trồng một số giống canh ki na ở Đan Kia và Măng Lin (Đà Lạt).
Sau khi thu được kết quả khả quan, bác sĩ Yersin chỉ đạo Viện Pasteur lập liên tiếp các đồn điền trồng canh ki na tại Dran (1.000m) năm 1923, tại Di Linh (900m) năm 1924, tại Petit Lang Biang (1.500m) năm 1925 và ở Diom gần Dran (1.000m) năm 1926... Cũng trong thời gian ấy, ông chọn địa điểm dốc Lang Hanh, độ cao 1.000m để xây dựng một cơ sở nghiên cứu chuyên sâu về loài cây quý này.
Ngôi nhà sàn ở Lang Hanh được khởi công tháng 11.1926, khánh thành tháng 5.1927, do chính bác sĩ Yersin phác thảo ý tưởng và được Chính phủ Pháp tài trợ kinh phí. Căn nhà vừa là nơi ở, vừa là trung tâm điều hành nghiên cứu, thí nghiệm. Trước nhà trồng hai cây cau ta, sau nhà một hàng chuối rẻ quạt theo phong thủy truyền thống “trước cau sau chuối”.
Cùng thời gian đó, Yersin cho xây dựng bên nhà sàn Vườn Sưu tập thực vật (Arboretum) để tạo cảnh quan và phục vụ nghiên cứu, giáo dục. Nổi bật như một cổng chào là hai cây gòn Mỹ (Ceiba pentandra caribaea) có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới châu Mỹ, cây trưởng thành cao tới 70m; bên cạnh là giống gòn ta (Ceiba pentandra guineensis) quê hương xa xưa ở vùng hoang mạc châu Phi. Trong vườn, có nhiều thực vật đặc sắc của Tây Nguyên như tùng dầu (Cupressus gigantea), gõ đỏ (Afzelia xylocarpa), giáng hương (Pterocarpus macrocarpus), cẩm lai (Dalbergia bariaensis), bách xanh (Calocedrus macrolepis) và đặc biệt là thông 5 lá Đà Lạt (Pinus dalatensis) - loài thông đặc hữu không thấy ở nơi nào khác.
Không dừng lại ở đó, Yersin còn đưa về nhiều loài thông trên thế giới: Pinus caribaea có nguồn gốc từ vùng biển Caribê châu Mỹ nên gọi là thông Caribê. Pinus patula, xuất xứ vùng núi Mehico, lá mềm mại luôn rủ xuống nên gọi là thông lá rủ... Cả loài thông đuôi ngựa (Pinus massoniana) vì có lá kim dài mỏng manh phất phơ như đuôi ngựa, phân bố ở các tỉnh Đông Bắc nước ta.
Nhiều cây gỗ quý như lim xanh (Erythrophleum fordii), trong “tứ thiết mộc” - bốn loại gỗ cứng như sắt và sa mu (Cunninghamia konishii) loài gỗ nhẹ, chắc, thơm, thân thẳng đứng, phân bố chủ yếu ở các tỉnh miền Bắc cũng được đưa về đây.
Điểm xuyết trong vườn là những cây đẹp và lạ như A-ga (Agave americana) quê hương ở miền Nam nước Mỹ, người Lang Hanh đã đặt tên cho nó là “cây mẹ bồng con”. Nhiều loài ngày nay đã tham gia vào trồng rừng đại trà hoặc trở thành cây cảnh quan, cây bóng mát đô thị như bạch đàn Eucalyptus saligna xuất xứ châu Úc, thân màu trắng, luôn chiếm lĩnh tầng cao trong không gian xanh. Eucalyptus citriodora, tên Việt là bạch đàn chanh vì lá có những túi dầu lấm tấm mang hương chanh thơm mát. Vàng anh (Saraca dives) có hoa vàng hoặc cam rực rỡ và tán cây tỏa rộng phủ bóng mát... Tất cả tạo nên một vườn sưu tập thực vật phong phú bậc nhất Tây Nguyên thời bấy giờ.
Tại ngôi nhà sàn này, giữa năm 1927 bác sĩ Yersin đã thiết lập Trại Nghiên cứu Phát triển cây canh ki na Lang Hanh và cử kỹ sư thủy lâm Frontou - phụ tá của ông - sang Java học tập kỹ thuật trồng canh ki na và lấy những hạt giống đã được tuyển chọn. Trở về, Frontou được Yersin giao làm giám đốc Trại. Từ năm 1929 đến 1931, đã có thêm 3 đồn điền trồng canh ki na được thành lập quanh Lang Hanh để ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật mà Trại đã nghiên cứu thành công.
Cây canh ki na trồng theo phương thức luân canh ở vườn nhà dân Lang Hanh.
Bác sĩ Yersin và các cộng sự đã khẳng định cách trồng canh ki na rất công phu vì thế cần thực hiện đúng quy trình. Cây canh ki na hợp độ cao trên 500m, đặc biệt từ 1.000 - 1.500m (so với mặt biển), nó ưa đất đỏ bazal không đọng nước và giàu chất mùn hay đất mỡ gà pha cát granit, lượng mưa hằng năm từ 1.500 - 2.000mm... Như thế tại Tây Nguyên có nhiều nơi trồng được cây canh ki na.
Đặc biệt công tác di truyền - chọn giống cũng được các nhà khoa học quan tâm, nhằm tạo ra những chủng canh ki na cho năng suất cao, giàu hoạt chất kí ninh và chống được bệnh “lở cổ rễ”, trong đó có cây canh ki na thuộc chủng Ledgeriana ưu việt vẫn tồn tại đến nay.
Từ năm 1932 đến 1942, dù chủ yếu làm việc ở Viện Pasteur Nha Trang, Yersin vẫn gắn bó với Trại Lang Hanh để xây dựng một quy trình tổng hợp từ ươm trồng, chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh đến khai thác, chế biến vỏ cây canh ki na. Trong đó có cả phương pháp đơn giản chế biến kí ninh để đồng bào ở những vùng hẻo lánh xa xôi cũng có thể tự mình dùng canh ki na trồng ở vườn nhà làm thuốc. Những nghiên cứu ấy giản dị mà sâu sắc, đã cứu sống biết bao người, nhất là trong những năm tháng thuốc trị bệnh bằng y học hiện đại còn khan hiếm.
Năm 1935, khi trở về Đà Lạt dự lễ khai giảng năm học đầu tiên của ngôi trường mang tên mình - Lyceé Yersin - ông đã dành trọn một ngày trở lại Lang Hanh. Ông thăm lại ngôi nhà sàn, gặp lại những cộng sự cũ, những người công nhân từng cùng ông sống, làm việc vượt qua bao thử thách trên con đường nghiên cứu gập ghềnh và cùng ông chia sẻ những tháng ngày gian khó mà chan chứa tình người. Đó cũng là lần cuối cùng bác sĩ Yersin lên Nam Tây Nguyên.
Bài và ảnh: Nguyễn Hoàng Bích
Nguồn Người Đô Thị : https://nguoidothi.net.vn/ngoi-nha-san-cua-bac-si-yersin-o-nam-tay-nguyen-50876.html