Nhân dân Ấn Độ chào mừng Chủ tịch Hồ Chí Minh sang thăm Ấn Độ, ngày 5/2/1958. Ảnh: tư liệu
Ngay từ khi đến với Chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn hướng về Nhân dân các dân tộc bị áp bức, chiến đấu không mệt mỏi vì một thế giới hòa bình, tự do và bình đẳng, con người được sống hạnh phúc. Người đã hết lòng, hết sức xây dựng sự đoàn kết nhất trí giữa các Đảng Cộng sản anh em trên cơ sở Chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng. Đồng thời, không ngừng vun đắp quan hệ gắn bó, hữu nghị giữa các dân tộc Đông Dương, các nước láng giềng; cũng như cống hiến xuất sắc cả về lý luận và thực tiễn cho phong trào cộng sản và phong trào giải phóng dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại là chiến sĩ quốc tế lỗi lạc, kiên cường và vô cùng trong sáng, suốt đời chiến đấu cho công bằng, hòa bình và tiến bộ của các dân tộc bị áp bức trên thế giới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu tượng của khát vọng hòa bình Việt Nam, của tình hữu nghị và hợp tác giữa các dân tộc. Bởi hơn ai hết, Hồ Chí Minh là người thiết tha với hòa bình - một nền hòa bình chân chính gắn liền với độc lập, thống nhất của Tổ quốc. Khi thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta, Người đã kiên trì con đường thương lượng, đối thoại nhằm giải quyết mối xung đột Việt - Pháp. Đến khi kẻ thù buộc Nhân dân Việt Nam phải đứng lên cầm súng kháng chiến, Người vẫn không buông ngọn cờ hòa bình, vẫn liên tục gửi thư đến Chính phủ, Quốc hội và Nhân dân Pháp, kêu gọi họ hãy hướng chính sách của nước Pháp vào con đường chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình. Những người từng đối thoại với Chủ tịch Hồ Chí Minh đều tỏ lòng kính trọng đối với “một con người mềm dẻo, kiên nhẫn, ôn hòa, luôn luôn tìm cách hòa giải về thể thức chuyển hóa và đều ca ngợi Hồ Chí Minh là “người luôn luôn biết giải quyết những vấn đề khó khăn với nụ cười trên môi”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã bắc những nhịp cầu hữu nghị, đẩy mạnh việc giao lưu, tiếp xúc, nhằm tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc - một cơ sở để duy trì và củng cố hòa bình. Người luôn khẳng định, Việt Nam là “một bộ phận trong phe hòa bình, dân chủ thế giới” và xác định chính sách đối ngoại của Việt Nam là “làm bạn với tất cả các nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”, nhằm “xây đắp nền hòa bình thế giới”. Suốt cuộc đời Người không chỉ đấu tranh cho độc lập, tự do của dân tộc mình, mà còn vì hạnh phúc và phẩm giá của các dân tộc bị áp bức. Sau khi Việt Nam giành được độc lập, Người đã không ngừng giáo dục Nhân dân về lòng yêu hòa bình và tình hữu nghị giữa các dân tộc, biết kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
Ngay từ khi nhà nước dân chủ cộng hòa non trẻ của Việt Nam vừa mới thành lập và còn trong vòng vây bốn bề của hệ thống tư bản thế giới, chưa được một quốc gia nào công nhận, cuối tháng 12/1946, trong “Lời kêu gọi Liên hợp quốc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động tuyên bố: Việt Nam dành thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình; Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay, đường sá giao thông cho buôn bán và quá cảnh quốc tế; Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên hợp quốc; Việt Nam sẵn sàng ký kết, trong khuôn khổ Liên hợp quốc, những hiệp định an ninh và những hiệp định có liên quan đến việc sử dụng một vài căn cứ hải quân và không quân... Khi trả lời phóng viên báo Pháp Regards, Người nói: “Chúng tôi muốn lập với nước Pháp những mối quan hệ kinh tế và văn hóa trên cơ sở bình đẳng, hai bên đều có lợi và cộng tác thẳng thắn và tin cậy nhau... Đồng thời, chúng tôi muốn lập quan hệ hữu nghị với tất cả các nước khác, trước hết là các nước châu Á”... Có thể nói, đây là những tư tưởng có tầm nhìn xa, đi trước thời đại, đã đặt nền móng cho chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế, mở cửa, hợp tác làm ăn với nước ngoài của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có nhiều chuyến thăm hữu nghị đến các nước xã hội chủ nghĩa anh em, các nước láng giềng ở châu Á... Ở đâu Người cũng nói lên tình cảm chân thành và nguyện vọng thiết tha của Nhân dân Việt Nam là được sống trong hòa bình, độc lập, có quan hệ hữu nghị với tất cả các dân tộc yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Suốt cuộc đời mình, Hồ Chí Minh theo đuổi lý tưởng hữu ái, đoàn kết, thân thiện giữa các dân tộc, không phân biệt chủng tộc và màu da. Ngay từ năm 1930, Người đã viết: “Rằng đây bốn bể một nhà/ Vàng, đen, trắng, đỏ đều là anh em”. Tư tưởng và tấm gương đấu tranh bất khuất cho độc lập, tự do của Hồ Chí Minh và Nhân dân Việt Nam đã trở thành nguồn cổ vũ mạnh mẽ đối với phong trào đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa trong thế kỷ XX. Nhiều quốc gia độc lập đã thừa nhận ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp của cách mạng Việt Nam và Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thủ tướng G. Neru đón Chủ tịch Hồ Chí Minh tại sân bay Niu Đêli nhân dịp Người sang thăm Ấn Độ ngày 5/2/1958. Ảnh tư liệu.
Sự nghiệp và di sản Người để lại không chỉ có giá trị đối với dân tộc Việt Nam, mà còn có ý nghĩa đối với Nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới. Đặc biệt, Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH ngày càng được biết đến rộng rãi trên thế giới. Nhiều nước Mỹ Latinh, từ thực tế phát triển của mình, đang có ý tưởng đi tìm một mô hình về “CNXH cho thế kỷ XXI”, phù hợp với đặc thù Mỹ Latinh. Sau nhiều công trình tưởng niệm đã có về Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Nicaragoa, Vênêxuêla... Và mới đây nhất, Áchentina đã khởi công xây dựng công trình Tượng đài Hồ Chí Minh ở Thủ đô Buenos Airet - thêm một biểu hiện mới về ảnh hưởng và sức sống của Tư tưởng Hồ Chí Minh đang lan tỏa tại khu vực Mỹ Latinh.
Ngày nay, tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Người vẫn giữ nguyên sức sống. Bởi nhiều quốc gia sau khi thoát khỏi chế độ thuộc địa vẫn đang bị kìm hãm trong tình trạng lạc hậu, kém phát triển. Một số cường quốc đang lợi dụng toàn cầu hóa, lợi dụng thế mạnh về kinh tế - tài chính, khoa học - công nghệ cao để mở rộng biên giới lợi ích quốc gia, xâm phạm độc lập và chủ quyền của các nước đang phát triển, đe dọa hòa bình, an ninh chính trị - xã hội của các nước này. Trong tình hình đó, Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc, chủ nghĩa yêu nước kết hợp với chủ nghĩa quốc tế, độc lập, phồn vinh cho đất nước và cho tất cả các dân tộc, vẫn đang tiếp tục tỏa sáng, và vẫn là mục tiêu, khát vọng của loài người trong thời đại ngày nay.
Khi nói về người con vĩ đại của dân tộc Việt Nam, Thủ tướng G. Nêru - nhà lãnh đạo của đất nước Ấn Độ đã nói: “Ông không chỉ là một người yêu hòa bình mà còn là một người đặc biệt nhã nhặn và hữu nghị, Người không bao giờ tự nghĩ về mình là ai, rất giản dị và khiêm tốn. Là Chủ tịch của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Người không tự giam mình trong tháp ngà. Người chủ yếu là người của công chúng, là một nhà lãnh đạo biết làm thế nào để kết hợp sự rộng lượng hào phóng tột bậc hiếm có với sự kiên định, cứng cỏi nhất. Bởi bất kỳ chuẩn mực nào, Hồ Chí Minh là con người nổi bật nhất trong thời đại chúng ta”.
Bởi vì non sông, đất nước ta đã sinh ra Chủ tịch Hồ Chí Minh và chính Người đã làm rạng rỡ cho dân tộc ta. Cho nên tên gọi “Việt Nam - Hồ Chí Minh” đã trở thành biểu tượng của các dân tộc bị áp bức trên hành trình đòi lại độc lập, tự do. Và dù “thế giới đã và sẽ còn đổi thay, nhưng Tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn sống mãi trong kho tàng văn hóa của nhân loại”. Bởi lẽ, “Hồ Chí Minh không thuộc về riêng Việt Nam, ông ấy thuộc về nhân loại trên toàn thế giới” (Jean Pierre Brard, nguyên Thị trưởng thành phố Montreuil, Cộng hòa Pháp).
Lưu Kiệt