Ông Mười sống trong căn nhà nhỏ ở một làng quê nghèo. Nhà chỉ có một gian, mái ngói loang lổ, vách tường vá víu bằng những miếng tôn cũ. Mỗi ngày ông ra vườn cuốc đất, trồng rau, chăn vài con gà đẻ trứng. Chiều lại một mình ngồi lặng lẽ bên mái hiên, mắt dõi về phía con đường làng bụi đỏ, lặng lẽ nhìn người qua lại như ngóng đợi ai đó.
Thực ra, đó chỉ là thói quen bao năm nay. Bởi ông Mười sống có một mình. Anh em họ hàng ở mãi dưới xuôi, trước kia thỉnh thoảng thấy có người ghé thăm rồi thưa nhặt dần. Gần chục năm nay thì không còn thấy bóng dáng ai qua lại.
Người làng nói rằng thời trai trẻ, ông từng là cán bộ kháng chiến, vào sinh ra tử chết hụt mấy lần. Có lần trúng đạn, ông cắn răng nhổ đầu đạn ra bằng chính con dao găm mang theo. Có trận, đồng đội ngã xuống bên cạnh vì đỡ đạn cho ông. Ông nằm bên bên bạn chờ sáng mới đưa được về đơn vị an táng.
Phục viên, ông về sinh sống trên mảnh đất cha mẹ để lại. Ngày ngày vui thú điền viên, chăn nuôi, trồng trọt trên mảnh vườn vài trăm mét vuông. Ông không lấy vợ dù nhiều thôn nữ “phải lòng”, ưa cái tính điềm đạm, chịu thương chịu khó của ông.
Ai thắc mắc, ông cũng chỉ cười hiền, nói rằng: Tôi đã có người thương!
Năm tháng trôi qua, đến lúc mọi người giật mình khi nhìn thấy ông Mười tóc đã bạc trắng, gương mặt hằn sâu những vết chân chim mà “người thương” đâu, chờ hoài chẳng thấy. Nhiều lời đồn đoán trước kia đến nay dường như vẫn chưa được xác thực: “Người thương của ông Mười là nữ du kích đã hy sinh trong một trận đánh, vì quá đau đớn, nhớ thương, ông đã thề nguyện ở vậy suốt đời; có người lại nói: “Ông Mười từng bị thương ở gần vùng kín, ông không muốn người phụ nữ nào vì mình khổ cả đời”…
Ai nói gì ông cũng không giải thích, sống hiền khô như cây cỏ. Người làng dường như chưa bao giờ nghe thấy ông than thở, oán trách hay tức giận một ai khi phán xét, đồn đoán về ông. Chưa kể, trong xóm có ai cần giúp đỡ, ông luôn nhiệt tình, trách nhiệm như thể đó là việc nhà mình. Kẻ ác ý cho rằng “ông là người gàn dở”, có vấn đề về mặt thần kinh, hâm. Thế mới biết ở đời, dù có sống hiền lành, tử tế đến cỡ nào cũng vẫn có người thương, kẻ ghét.
Kệ. Ông vẫn sống như một cái bóng lặng lẽ giữa làng quê đổi thay từng ngày. Thi thoảng, trong ánh mắt trầm ngâm trước hoàng hôn, người ta bắt gặp một nỗi cô đơn âm thầm không nói thành lời.
Thời thế đổi thay, trong làng nhiều người giàu lên, nhà tầng mọc san sát. Ngôi nhà của ông cũ kỹ, xiêu vẹo theo thời gian, nhiều tổ chức muốn hỗ trợ ông làm lại căn nhà mới, nhưng ông không nhận. Ông bảo: Tôi chỉ có một mình, sống nay chết mai. Ở như thế ổn rồi. Có nhiều gia đình còn khổ hơn tôi cần giúp đỡ. Hãy giúp họ!
Ông sinh sống nhờ tất cả vào mảnh vườn nhỏ và tiền trợ cấp thương binh. Nghèo là thế nhưng hầu như gia đình nào ở cái làng nhỏ này cũng từng nhận ơn ông. Nhà bà Sáu bị sập bếp, ông xắn tay giúp sửa lại. Con ông Tư bị sốt nửa đêm, ông lóc cóc đạp xe ra trạm y tế gọi bác sĩ. Lũ tràn về, ông lội nước cứu được hai con bò cho nhà ông Năm. Mỗi lần biết ai đó khốn khó, ông sẵn sàng nhường chục trứng gà, củ sắn, củ khoai, mớ rau hái từ vườn nhà.
Ông cứ sống lẫm lũi, cô quạnh trong ngôi nhà nhỏ đơn sơ và như chỉ chờ có ai cần đến là ông nhiệt tình giúp đỡ dù việc nhỏ, việc lớn. Mỗi lần như vậy, ông tỏ ra vui vẻ, phấn chấn lạ thường, linh hoạt như một người khác.
Cho đến một ngày ông ngã quỵ trước hiên nhà, rổ trứng gà văng ra sân vỡ tung tóe. May lúc đó, bé Thảo - người hàng xóm kế bên đang hái rau chuẩn bị nấu cơm trưa, nó nghe thấy “bộp”, nhìn qua, thấy cánh tay gầy guộc, nổi vằn gân xanh của ông Mười quơ quơ rồi rớt xuống thõng thượt. Thảo vội gọi mẹ đưa ông đi cấp cứu.
Từ ngày đó, ông Mười nằm liệt giường. Ban đầu, vài ba người ghé ngang, hỏi han lấy lệ. Cũng có người bưng sang bát cháo, có người dúi vào góc nhà gói mì hay ít gạo. Nhưng chỉ độ dăm hôm, bóng người thưa dần.
Người thì bảo: “Tội nghiệp ông Mười, nhưng không thân thích gì nên cũng chỉ biết giúp thế thôi!”. Người lại nói: “Ông Mười là người tốt, nhưng nhà tôi neo người, tôi phải đi làm cả ngày, nên không có thời gian chăm nom được.” Một vài người im lặng, nhưng ánh mắt thì đã nói thay: “Ông ấy sống một mình, giờ nằm đó… biết sao được.”
Chỉ có Thảo, là vẫn đều đặn ghé qua. Nó mới 15 tuổi, gầy guộc và đen nhẻm vì từ nhỏ đã phải phụ mẹ việc đồng áng. Mẹ Thảo đơn thân nuôi con, ngoài trông vào mấy sào ruộng, hàng ngày bà phải đi nhặt ve chai kiếm thêm thu nhập. Nhưng mỗi ngày, Thảo không quên chạy sang nhà ông Mười. Nó chất bếp đun nước ấm để lau người cho ông rồi nấu cháo. Nó rồi ngồi cạnh giường bón từng thìa cháo. Ông ăn rất chậm và khó khăn, có hôm còn trào ra miệng làm bẩn chiếc áo mới thay. Nhưng Thảo không tỏ vẻ sốt ruột, không nóng giận với ông. Nó cứ kiên nhẫn như như đang chăm sóc cho chính ông nội của mình.
Có lần, bà Sáu đầu xóm ghé qua, thấy vậy liền hỏi nửa đùa nửa thật: “Ông Mười đâu phải họ hàng gì với nhà mày?”
Thảo chỉ cười, nói lễ phép: “Ông hay kể chuyện cho con nghe. Chuyện kháng chiến, chuyện người lính, chuyện cái làng này hồi còn nghèo khó. Nhờ ông, con thêm yêu quê hương, đất nước, biết giúp đỡ, yêu thương mọi người. Con thương ông như ruột thịt.”
Ông Mười nằm trong nhà, đôi mắt nhìn ra, dõi theo bóng dáng nhỏ bé, tận tụy kia như vớt vát chút ánh sáng còn sót lại trong cuộc đời mình.
Mỗi lần ông Mười húng hắng ho, Thảo lại mau mắn chạy vào nhanh như một con sóc nhỏ, rồi an ủi: “Ông đừng lo gì hết. Có con ở đây.”
Một tháng sau, ông Mười mất. Ngày ông mất cũng là ngày xã thông báo, dự án làm con đường mới liên xã sẽ đi qua trước cửa nhà ông Mười. Luật sư xuất hiện, mang theo di chúc công chứng. Trong đó, ông Mười ghi rõ: Toàn bộ mảnh đất hơn 500 mét vuông được để lại cho cháu Nguyễn Thị Thảo, con gái bà Nguyễn Thị Miên…
Cuộc đời thường có những bất ngờ. Đôi khi một hành động nhỏ đúng lúc, lại là thứ chạm vào trái tim sâu sắc nhất.
Hải Đăng