Ánh sáng Nam Du
Theo đoàn công tác của Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân và Thành ủy TP. Hồ Chí Minh, tôi đặt chân đến đảo Nam Du vào một ngày giữa tháng 9/2025, khi mùa gió chướng Tây Nam đã sắp tàn. Biển vẫn trào dâng những con sóng nặng nề, du khách dường như cũng vắng bóng.
Giờ đây đường bến tàu Nam Du lên ngọn Hải Đăng đang được đầu tư mở rộng
Trên đỉnh đồi cao hơn 308m so với mực nước biển là nơi đặt ngọn hải đăng cao nhất Việt Nam, tôi gặp anh Vũ Năng Huân- Trạm trưởng Trạm hải đăng Nam Du.
“Trên đời có nhiều công việc nhọc nhằn, nhưng gác hải đăng là một nghề vừa vất vả vừa cô đơn. Ở nơi biển cả mịt mùng, tiếng sóng gào và gió rít không ngơi nghỉ, người gác đèn phải sống cùng sự tĩnh lặng đến thắt lòng” – anh Huân chia sẻ.
Nằm ở phía đông Nam đảo Phú Quốc, quần đảo Nam Du thuộc đặc khu Kiên Hải, tỉnh An Giang, nơi có ngọn hải đăng Nam Du được xây dựng từ năm 2001 có chiều cao 11.6m, đây là nơi thu hút đông đảo du khách đến thăm khi đến với Nam Du.
Từ trên đỉnh, ánh sáng tỏa đi xa, dẫn dắt biết bao chuyến tàu qua vùng biển Tây Nam, vừa bảo đảm an toàn hàng hải, vừa là điểm đến kỳ thú cho du khách.
Anh Đỗ Năng Huân (thứ 2 từ phải sang) đang báo cáo với Chuẩn đô đốc Đỗ Văn Yên, Phó Chính ủy Quân chủng Hải quân về điều kiện làm việc và đời sống của cán bộ Trạm hải đăng Nam Du
Sinh năm 1971, quê gốc Thái Bình (nay là tỉnh Hưng Yên), anh Huân đã gắn bó gần 30 năm với nghề giữ đèn, trong đó hơn một thập kỷ ở Nam Du. Trước khi đến đây, anh từng gác nhiều ngọn hải đăng như: Hà Tiên, Bảy Cạnh (Côn Đảo), Vũng Tàu, Hòn Chuối (Cà Mau)... Mỗi trạm đèn là một thử thách, một kỷ niệm, nhưng Nam Du đã giữ chân anh lâu nhất.
Anh Vũ Năng Huân cho hay, trên đời có những công việc nhọc nhằn nhưng luôn có đồng đội sẻ chia. Lại có những công việc vừa vất vả, vừa cô đơn đến thắt lòng. Gác hải đăng là một nghề như thế.
Giữa biển cả mịt mùng, nơi tiếng gió gào và sóng vỗ không ngơi nghỉ, những người gác hải đăng lặng lẽ sống cùng cô độc. Họ nghe sóng biển tự vỡ tan vào vách đá, nghe tiếng đêm dài rít lên từng cơn gió, để ánh sáng ngọn đèn không bao giờ ngưng nghỉ.
“Khi mới ra, đảo còn hoang sơ lắm, thiếu thốn đủ bề, bà con sống còn nhiều khó khăn. Nhưng giờ đây, nhờ du lịch phát triển, đời sống dần khởi sắc. Người dân bám biển, nuôi trồng thủy sản, mở dịch vụ. Các lực lượng đóng quân cũng góp phần quan trọng giữ bình yên để dân yên tâm làm ăn. Nhìn sự đổi thay, tôi thấy công việc mình làm cũng góp phần nhỏ bé trong đó” – anh Vũ Năng Huân chia sẻ.
Nghề chọn người, người giữ nghề bằng trách nhiệm
Với anh Huân, nghề gác hải đăng không phải sự lựa chọn ngẫu nhiên. Bởi theo anh “Nghề chọn mình chứ mình không chọn nghề”.
Trạm trưởng Vũ Năng Huân cho biết, giữ hải đăng không chỉ đơn thuần là bật một ngọn đèn. Công việc hằng ngày là kiểm tra, lau chùi, bảo dưỡng. Mặt kính buồng đèn phải sạch bong không một hạt bụi, bởi ánh sáng chỉ tỏa ra đúng tầm khi không bị che mờ. Máy phát điện phải vận hành ổn định, chu kỳ chớp sáng phải chính xác. Chỉ một trục trặc nhỏ cũng có thể khiến tín hiệu dẫn đường gián đoạn, làm tàu thuyền ngoài khơi lạc hướng.
Trạm trưởng Trạm hải đăng Nam Du Vũ Năng Huân
“Có khi sét đánh hỏng đèn chính, chúng tôi lập tức bật đèn dự phòng. Ngọn hải đăng không được phép tắt một giây” – anh kể.
Với anh, ánh sáng ngọn đèn cũng giống như lòng người gác: Chỉ sáng khi tâm hồn trong sạch, bỏ hết ưu phiền, vững vàng giữa sóng gió.
Thế nhưng, phía sau ngọn đèn là cả những thiệt thòi đời thường. “Có khi nhiều tháng liền không về nhà. Con ốm đau, chỉ biết gọi điện động viên vợ cố gắng gánh vác. Thậm chí có lần con bị gãy tay, tôi cũng đang ở ngoài biển tham gia hỗ trợ thi công kéo điện từ đất liền ra đảo Lại Sơn, không thể về ngay được”, anh kể với giọng ngẹn ngào như trùng xuống.
Uống một tách trà, anh tiếp tục chia sẻ, năm 2007, khi mẹ mất, tôi đang công tác tại Trạm Hải đăng Hòn Chuối. Đảo chỉ cách đất liền 20 hải lý, nhưng biển động dữ dội khiến tôi phải xuống bến chờ từ sáng đến chiều tối may mắn có tàu cá cập đảo và tôi đã đi nhờ tàu vào bờ để về nhà chịu tang mẹ.
“Đó là những thiệt thòi mà người làm nhiệm vụ nơi đảo xa phải chấp nhận” – anh nghẹn ngào cho biết.
Ngọn hải đăng Nam Du là một trong những địa chỉ được du khách lựa chọn khi đến với đảo
Gian khó, thiếu thốn là vậy, nhưng người Trạm trưởng ấy chưa bao giờ nghĩ đến bỏ nghề. Bởi hơn cả một công việc, đây là sứ mệnh. Giữ đèn biển, theo anh, là chọn lấy cô đơn để những con tàu không không lạc lối.
Anh Vũ Năng Huân cho biết, tôi từng từng tham gia nhiều dự án trọng điểm như kéo điện từ đặc khu Phú Quốc ra đảo Kiên Bình, dựng 17 trụ điện nổi trên biển… Đó không chỉ là những công trình kinh tế mà còn mang ý nghĩa chính trị, khẳng định chủ quyền, bảo vệ an ninh – quốc phòng vùng biển Tây Nam.
“Ở trạm chúng tôi có 5 người, tất cả đều coi nhau như anh em ruột thịt. Cùng ăn, cùng ở, cùng làm, chia sẻ với nhau từng niềm vui, nỗi buồn. Thời gian bên nhau còn nhiều hơn cả bên gia đình” –anh nói. Chính tình đồng đội ấy giúp những người giữ đèn vững vàng trước cô đơn, bám trụ giữa gió sóng.
Ngoài giờ trực, cán bộ trạm còn trồng rau, nuôi gà vịt để cải thiện bữa ăn. Đảo nhỏ, đất canh tác hạn chế, nhưng bữa cơm vẫn ấm tình đồng đội.
“Giờ đây, nhờ sự quan tâm của các cấp, đường xá ở Nam Du đã được cải thiện, đi lại thuận lợi hơn, đời sống dần khấm khá, trường học, trạm y tế cũng từng bước được đầu tư, mở rộng và nâng cấp”- anh Vũ Năng Huân cho biết.
Từ trên ngọn hải đăng, du khách có thể nhìn thấy toàn bộ quần đảo Nam Du
Dù vậy, nỗi trăn trở vẫn còn. Nam Du hiện dùng máy phát diesel và điện mặt trời – chi phí cao, thiếu ổn định. Anh Huân kỳ vọng dự án kéo điện lưới quốc gia bằng cáp ngầm từ Lại Sơn ra Nam Du sớm triển khai: “Có điện, dân sẽ yên tâm bám biển, du lịch phát triển, đơn vị làm việc thuận lợi. Đó không chỉ là lợi ích kinh tế mà còn góp phần củng cố an ninh quốc phòng”.
Trong sâu thẳm, mỗi khi nỗi nhớ nhà ùa về, anh Huân lại tìm cho mình một cách riêng để vượt qua. “Tôi nhìn sóng ngoài kia tự vỡ tan vào vách đá, như nghe thấy tiếng người thân thì thầm nhắn nhủ. Để rồi tự nhủ phải kiên cường, vững vàng với nghề mình chọn” – anh nói.
Ba mươi năm gắn bó với ngành hải đăng, anh Vũ Năng Huân hiểu rằng giữ đèn biển là giữ niềm tin. Tàu thuyền có thể vững vàng ra khơi, bởi ngoài kia, giữa trùng khơi gió sóng, có ánh sáng không bao giờ tắt. Và cũng chính ánh sáng ấy giữ ông ở lại, bình thản, kiên cường.
“Chúng tôi không cô đơn. Bởi phía sau luôn có đất liền, có bạn bè, đồng đội, có sự quan tâm của Đảng, Nhà nước. Mong muốn duy nhất của chúng tôi là hoàn thành nhiệm vụ, giữ vững ánh sáng hải đăng, để tàu thuyền yên tâm ra khơi, góp phần bảo vệ và xây dựng Tổ quốc” - anh Huân tin tưởng và bày tỏ bằng nụ cười hiền, giản dị.
Bài và ảnh: Thu Hường