TAND TP.HCM vừa công bố Bản án số 1595/2025/DS-ST ngày 30-9-2025 về tranh chấp hợp đồng trích thưởng giữa nguyên đơn là ông K (sinh năm 1964; người Hàn Quốc, ngụ TP.HCM), bị đơn là Công ty Đ.
Hai hợp đồng trích thưởng hơn 9 tỉ đồng
Theo ông K, Công ty Đ đã ký hai hợp đồng trích thưởng ngày 20-10-2023 (hợp đồng trích thưởng 1 - tổng số tiền trích thưởng 4,6 tỉ đồng) và ngày 26-10-2023 (hợp đồng trích thưởng 2 - tổng số tiền trích thưởng là 5,2 tỉ đồng) với ông K về việc công ty khoán và ủy quyền cho ông K tìm kiếm khai thác, quan hệ, không bao gồm lập hồ sơ đấu thầu, xét thầu, dẫn dắt cho công ty ký kết được hợp đồng xây dựng dự án.
Dựa trên hợp đồng thầu xây dựng, ông K đã thực hiện đúng nghĩa vụ của mình, đã hỗ trợ Công ty Đ hoàn thành việc ký nhận thầu thi công theo hợp đồng thầu.
Tuy nhiên sau đó, công ty chỉ thanh toán cho ông K 2,6 tỉ đồng và không thanh toán tiền trích thưởng còn lại cho ông K theo thỏa thuận.
Vì vậy, ông K khởi kiện yêu cầu tòa án buộc công ty thanh toán số tiền trích thưởng còn nợ và tiền lãi phát sinh tạm tính là hơn 6,7 tỉ đồng, thanh toán một lần ngay khi án có hiệu lực pháp luật.
Về bị đơn Công ty Đ, quá trình giải quyết vụ án, Công ty Đ đã được tòa án triệu tập hợp lệ để cung cấp bản tự khai, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; tham gia phiên tòa nhưng đều vắng mặt không có lý do, không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của ông K và cũng không cung cấp tài liệu chứng cứ cho tòa án.
Đại điện VKS thì cho rằng yêu cầu khởi kiện của ông K là có căn cứ nên đề nghị HĐXX chấp nhận toàn bộ, buộc Công ty Đ phải có trách nhiệm thanh toán cho ông K số tiền theo hợp đồng trích thưởng và tiền lãi là hơn 7,4 tỉ đồng.
Công ty phải thanh toán tiền trích thưởng còn lại
HĐXX sơ thẩm cho rằng về hợp đồng trích thưởng hoàn toàn đúng về mặt chủ thể theo quy định pháp luật. Xét về hình thức, hợp đồng được lập thành văn bản, có chữ ký của các bên, có đóng dấu doanh nghiệp, mẫu hợp đồng là của công ty nên thỏa mãn về mặt hình thức.
Cũng theo tòa, nội dung không vi phạm các quy định của pháp luật cũng như không trái với đạo đức xã hội; các bên tham gia hợp đồng hoàn toàn tự nguyện... nên có đủ điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 117 BLDS. Do đó, căn cứ các Điều 116, 117, 118, 119, 120 và Điều 570 BLDS, hợp đồng ký kết giữa ông K và Công ty Đ hoàn toàn phù hợp với quy định pháp luật về Luật Doanh nghiệp và BLDS nên phát sinh hiệu lực đối với các bên.
Việc ông K khởi kiện là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại Điều 570, 572 BLDS.
Từ đó, HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông K, buộc Công ty Đ thanh toán cho ông K số tiền theo hai hợp đồng trích thưởng còn nợ và số tiền lãi tổng cộng là hơn 7,4 tỉ đồng.
Nghĩa vụ chứng minh
Trong bản án, HĐXX sơ thẩm còn cho rằng về nghĩa vụ chứng minh, quá trình giải quyết vụ án, tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng để triệu tập bị đơn tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; tham gia phiên tòa nhưng Công ty Đ vắng mặt không có lý do và cũng không gửi văn bản có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của ông K.
Đồng thời công ty cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ cho tòa án được xem là đã từ bỏ quyền được chứng minh của mình và phải chịu hậu quả của việc không chứng minh theo quy định tại Điều 91 BLTTDS năm 2015.
Mặt khác, khoản 2 Điều 92 BLTTDS năm 2015 quy định: “Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản, kết luận của cơ quan chuyên môn mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải chứng minh”. Do đó, HĐXX căn cứ yêu cầu khởi kiện, lời trình bày của các đương sự, các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp và các tài liệu, chứng cứ do tòa án thu thập để làm chứng cứ giải quyết vụ án.
YẾN CHÂU