Người nước ngoài lái xe gây tai nạn tại Việt Nam thì xử lý thế nào?

Người nước ngoài lái xe gây tai nạn tại Việt Nam thì xử lý thế nào?
15 giờ trướcBài gốc
Luật sư Trương Đức Trung
*Luật sư Trương Đức Trung – Trưởng Chi nhánh Quảng Nam - Văn phòng Luật sư Phong & Partners trả lời:
Việt Nam hiện là một trong những điểm đến thu hút đông đảo du khách quốc tế. Để thuận tiện trong việc trải nghiệm, khám phá, nhiều du khách đã lựa chọn sử dụng xe mô tô, xe gắn máy để di chuyển tại Việt Nam. Việc điều khiển phương tiện giao thông tại đây đòi hỏi phải tuân thủ nghiêm các quy định pháp luật về điều kiện điều khiển phương tiện và các quy tắc an toàn giao thông đường bộ. Trong thực tế, không ít vụ tai nạn xảy ra khi người điều khiển là du khách nước ngoài, nguyên nhân có thể xuất phát từ việc chưa quen luật giao thông, điều kiện đường sá hoặc từ lỗi của các bên tham gia khác. Chính vì vậy, khi sự việc đáng tiếc xảy ra, vấn đề quan trọng là phải xác định rõ yếu tố lỗi và trách nhiệm pháp lý của từng bên. Trong trường hợp của anh A.L, để xác định trách nhiệm pháp lý mà anh có thể phải chịu, Luật sư sẽ phân tích dựa trên cơ sở những quy định của pháp luật Việt Nam.
Thứ nhất, về điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông
Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ năm 2024 quy định:
“Điều 9. Các hành vi bị nghiêm cấm
1. Điều khiển xe cơ giới tham gia giao thông đường bộ không có giấy phép lái xe theo quy định của pháp luật”
“Điều 56. Điều kiện của người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ
1. Người lái xe tham gia giao thông đường bộ phải đủ tuổi, sức khỏe theo quy định của pháp luật; có giấy phép lái xe đang còn điểm, còn hiệu lực phù hợp với loại xe đang điều khiển do cơ quan có thẩm quyền cấp[…]”
“Điều 57. Giấy phép lái xe
6. Giấy phép lái xe có giá trị sử dụng trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam bao gồm:
a) Giấy phép lái xe do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp;
b) Giấy phép lái xe quốc tế và giấy phép lái xe quốc gia phù hợp với loại xe được phép điều khiển do quốc gia là thành viên của Công ước của Liên hợp quốc về Giao thông đường bộ năm 1968 (sau đây gọi là Công ước Viên) cấp;
c) Giấy phép lái xe phù hợp với loại xe được phép điều khiển của nước hoặc vùng lãnh thổ mà Việt Nam ký kết điều ước quốc tế hoặc thỏa thuận quốc tế công nhận giấy phép lái xe của nhau;
d) Giấy phép lái xe nước ngoài phù hợp với loại xe được phép điều khiển do quốc gia được công nhận theo điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.”
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, người tham gia giao thông phải sử dụng giấy phép lái xe có hạng phù hợp loại xe điều khiển cũng như có giá trị sử dụng trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Đối với người nước ngoài tham gia giao thông tại Việt Nam, pháp luật Việt Nam chỉ thừa nhận một trong các loại giấy phép được quy định tại khoản 6 Điều 57 Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ năm 2024. Anh A.L có giấy phép lái xe quốc tế do Úc cấp nhưng cơ quan điều tra xác định rằng loại giấy phép này không có giá trị sử dụng tại Việt Nam. Nguyên nhân là hiện nay, giữa Úc và Việt Nam không có thỏa thuận về việc công nhận bằng lái của nhau, đồng thời Úc không phải là nước thành viên của Công ước viên 1968. Do đó, loại giấy phép lái xe mà anh A.L được cấp theo Công ước về Giao thông đường bộ 1949 không phải là loại giấy phép được chấp nhận theo quy định tại điểm b khoản 6 Điều 57 nêu trên. Việc điều khiển phương tiện với giấy phép lái xe không có giá trị sử dụng tại Việt Nam được xem là không đủ điều kiện điều khiển xe. Đây là hành vi bị nghiêm cấm theo quy định tại khoản 1 Điều 9 Luật Trật tự an toàn giao thông đường bộ năm 2024.
Thứ hai, yếu tố lỗi của người điều khiển phương tiện tham gia giao thông
Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ năm 2024 quy định:
“Điều 10. Quy tắc chung
1. Người tham gia giao thông đường bộ phải đi bên phải theo chiều đi của mình, đi đúng làn đường, phần đường quy định, chấp hành báo hiệu đường bộ và các quy tắc giao thông đường bộ khác.”
“Điều 12. Chấp hành quy định về tốc độ và khoảng cách giữa các xe
2. Người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ phải bảo đảm tốc độ phù hợp điều kiện của cầu, đường, mật độ giao thông, địa hình, thời tiết và các yếu tố ảnh hưởng khác để bảo đảm an toàn.
3. Người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ phải quan sát, giảm tốc độ hoặc dừng lại để bảo đảm an toàn trong các trường hợp sau đây:
b) Có báo hiệu cảnh báo nguy hiểm hoặc có chướng ngại vật trên đường;
h) Tránh xe đi ngược chiều hoặc khi cho xe đi phía sau vượt; khi có tín hiệu xin đường, tín hiệu khẩn cấp của xe đi cùng chiều phía trước;”
Lỗi của người điều khiển phương tiện giao thông là căn cứ pháp lý quan trọng để xác định cá nhân đó có vi phạm quy định pháp luật hay không cũng như là căn cứ để đánh giá mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm. Trong các vụ tai nạn giao thông, việc xác định lỗi sẽ dựa trên các yếu tố: người điều khiển có tuân thủ đầy đủ điều kiện điều khiển phương tiện theo quy định pháp luật không; việc di chuyển có đúng làn đường, đúng tốc độ, giữ khoảng cách an toàn với phương tiện khác không; khả năng quan sát và xử lý tình huống khi gặp chướng ngại vật hoặc tình huống nguy hiểm bất ngờ. Do đó, cần phân tích lỗi từ cả hai phía để có thể có những đánh giá khách quan, phù hợp.
Lỗi của người phụ nữ: như anh A.L trình bày, người phụ nữ này đi ngược chiều và cắt ngang làn đường dành cho xe cơ giới, xe gắn máy. Đây là hành vi vi phạm khoản 1 Điều 10 Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ năm 2024 “Người tham gia giao thông đường bộ phải đi bên phải theo chiều đi của mình, đi đúng làn đường, phần đường quy định”. Hành vi này không chỉ gây nguy hiểm cho bản thân người điều khiển phương tiện mà còn tiềm ẩn nguy cơ gây tai nạn cho người khác. Theo chia sẻ của anh A.L, đây có thể được xem là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến vụ tai nạn này.
Lỗi của anh A.L: ngoài việc phải đáp ứng yêu cầu về sử dụng giấy phép lái xe phù hợp khi tham gia giao thông, pháp luật còn yêu cầu người điều khiển phương tiện phải bảo đảm tốc độ phù hợp với mật độ giao thông thực tế, giữ khoảng cách an toàn với phương tiện khác, quan sát và giảm tốc độ khi gặp chướng ngại vật hoặc xe đi ngược chiều. Nếu anh A.L không giảm tốc độ và không xử lý kịp thời khi phát hiện xe đi ngược chiều, thì đây cũng là hành vi vi phạm quy định tại Điều 12 nêu trên. Do đó, cần phải thu thập thêm tài liệu, chứng cứ để có thể xác định chính xác phần lỗi của anh trong vụ tai nạn này.
Nếu cơ quan điều tra xác định cả hai bên đều có vi phạm, đây sẽ là lỗi hỗn hợp. Khi đó, mức độ lỗi của mỗi bên sẽ được xem xét để xác định trách nhiệm pháp lý tương ứng. Tuy nhiên, anh A.L cần lưu ý rằng, việc điều khiển phương tiện mà không có giấy phép lái xe phù hợp theo quy định của pháp luật Việt Nam là tình tiết định khung theo quy định tại khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Thứ ba, hậu quả pháp lý
- Về trách nhiệm bồi thường dân sự:
Khoản 3 Điều 601 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về việc bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra như sau:
“3. Chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi”
Xe mô tô được quy định là nguồn nguy hiểm cao độ nên chủ sở hữu hoặc sử dụng phương tiện này có trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu gây ra thiệt hại, kể cả khi bản thân không có lỗi. Trong trường hợp của anh A.L, dù lỗi không hoàn toàn thuộc về anh, anh phải có nghĩa vụ bồi thường cho nạn nhân và gia đình của họ. Các khoản bồi thường trong trường hợp gây tai nạn chết người được quy định như sau:
“Điều 591. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm
1. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:
a) Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo quy định tại Điều 590 của Bộ luật này;
b) Chi phí hợp lý cho việc mai táng;
c) Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng;
d) Thiệt hại khác do luật quy định.
2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp tính mạng của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có tính mạng bị xâm phạm không quá một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.”
- Về truy cứu trách nhiệm hình sự
Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ như sau:
“1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Làm chết người;
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Không có giấy phép lái xe theo quy định;
b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định, có sử dụng chất ma túy hoặc chất kích thích mạnh khác;
…”
Theo đó, người tham gia giao thông đường bộ vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ mà gây thiệt hại cho người khác thì sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự. Trường hợp anh A.L có giấy phép lái xe phù hợp theo khoản 6 Điều 57 Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ năm 2024, anh có thể bị xử lý theo điểm a, khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự 2015 với mức phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Ngược lại, nếu không có giấy phép lái xe phù hợp theo quy định pháp luật Việt Nam, anh A.L có thể bị truy cứu trách nhiệm theo khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015. Mức xử phạt quy định tại khoản này là phạt tù từ 3 năm đến 10 năm. Tuy nhiên, trong quá trình lượng hình, Hội đồng xét xử cũng sẽ cân nhắc, đánh giá tính chất của hành vi phạm tội, nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự để quyết định hình phạt tương xứng đối người phạm tội.
Đây là hậu quả pháp lý mà anh A.L có thể phải chịu được xác định dựa trên hai tình tiết quan trọng mà anh cung cấp:
1. Vụ tai nạn đã gây hậu quả làm chết người;
2. Anh hiện không có giấy phép lái xe phù hợp để điều khiển xe mô-tô tại Việt Nam. Tuy nhiên, nếu trong quá trình giải quyết vụ việc, cơ quan cảnh sát điều tra xác định được lỗi hoàn toàn thuộc về người phụ nữ đi ngược chiều, tức là trong quá trình điều khiển xe, anh tuân thủ đúng tốc độ cho phép, đi đúng làn đường, phần đường theo quy định, không sử dụng rượu bia hay chất kích thích trong khi điều khiển xe, không có bất kì hành vi vi phạm nào khác, hành vi của anh chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì anh sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự. Trường hợp này, cơ quan cảnh sát điều tra sẽ chuyển hồ sơ của anh A.L cho cơ quan có thẩm quyền để xử phạt vi phạm hành chính theo Nghị định 168/2024/NĐ-CP.
Trên đây là tư vấn của Luật sư dựa trên những thông tin mà anh A.L cung cấp. Để bảo đảm tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong vụ tai nạn này, anh nên mời Luật sư tham gia hỗ trợ ngay từ giai đoạn điều tra ban đầu. Luật sư sẽ giúp anh được hỗ trợ pháp lý chuyên sâu trong quá trình làm việc với cơ quan điều tra: có mặt trong các buổi lấy lời khai; kiểm tra, đánh giá về các chứng cứ, tài liệu, đồ vật có liên quan;… Đồng thời, Luật sư sẽ cùng anh tham gia thỏa thuận, thương lượng về trách nhiệm dân sự với gia đình người phụ nữ trong vụ việc này và chuẩn bị các căn cứ để xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc xin giảm nhẹ hình phạt.
Chuyên mục này có sự hợp tác về chuyên môn của Văn phòng Luật sư Phong & Partners. Đường dây nóng hỗ trợ tư vấn: 0236.3822678 - 0905.102425
Nguồn CAĐN : https://cadn.com.vn/nguoi-nuoc-ngoai-lai-xe-gay-tai-nan-tai-viet-nam-thi-xu-ly-the-nao-post317545.html