Người thầy lỗi lạc dám vạch trần lối học cầu danh hơn 200 năm trước

Người thầy lỗi lạc dám vạch trần lối học cầu danh hơn 200 năm trước
2 giờ trướcBài gốc
Lê Quý Đôn (1726–1784), tên khai sinh Lê Danh Phương, tự Doãn Hậu, hiệu Quế Đường, sinh trong một gia đình khoa bảng ở làng Diên Hà, trấn Sơn Nam Hạ (nay thuộc huyện Hưng Hà, Thái Bình). Cha ông là tiến sĩ Lê Trọng Thứ, người có ảnh hưởng lớn tới sự nghiệp học vấn của ông. Ngay từ nhỏ, Lê Quý Đôn đã nổi tiếng thần đồng, ham đọc sách và đặc biệt xuất sắc trong học tập. Ông sớm ghi danh vào lịch sử khoa cử khi lần lượt đỗ đầu cả ba kỳ thi lớn: Giải nguyên năm 1743, rồi Hội nguyên và Bảng nhãn năm 1752.
Tranh vẽ Lê Quý Đôn. Ảnh: Bảo tàng Lịch sử quốc gia.
Trên con đường làm quan, Lê Quý Đôn phục vụ dưới triều Lê và phủ chúa Trịnh, nổi bật ở cả văn lẫn võ. Ông để lại dấu ấn trên nhiều lĩnh vực: kinh tế, chính trị, ngoại giao, giáo dục, luật pháp, hành chính, sử học và địa lý. Trong suốt cuộc đời quan nghiệp, hiếm có ai được giao nhiều trọng trách như ông.
Đặc biệt, ông là một người thầy lỗi lạc, luôn đặt giáo dục và đào tạo nhân tài lên hàng đầu. Ông dám lên tiếng phê phán nền học tầm chương trích cú, chỉ nhằm thi cử và cầu danh.
Nhà bác học lỗi lạc
Lê Quý Đôn là một trong số hiếm hoi những danh nhân mà di sản trí tuệ của họ có thể ví như “một lâu đài văn hóa và khoa học”. Khối lượng tác phẩm ông để lại thực sự đồ sộ: 50 bộ sách lớn với hàng trăm quyển, bao trùm từ khoa học xã hội nhân văn đến khoa học tự nhiên.
Danh nhân văn hóa, Nhà bác học Lê Quý Đôn.
Đó không chỉ là tri thức, mà còn là tấm gương sáng về tinh thần trách nhiệm, phương pháp làm việc, tư duy khoa học và phong cách sống của một người cầm bút chân chính, được bồi đắp bằng những trải nghiệm thực tiễn phong phú trong nghiên cứu, học tập, sưu tầm và trước tác.
Di sản ấy trải rộng trên nhiều lĩnh vực. Về triết học có Thư kinh diễn nghĩa, Dịch kinh phu thuyết, Xuân Thu lược luận, Quần thư khảo biện; về sử học có Đại Việt thông sử, Kiến văn tiểu lục, Bắc sứ thông lục, Lê triều công thần liệt truyện; về văn học có Toàn Việt thi lục, Hoàng Việt văn hải, Quế Đường thi tập, Quế Đường văn tập. Đặc biệt, Vân Đài loại ngữ được xem như một bộ bách khoa toàn thư đầu tiên của Việt Nam.
Qua kho tàng ấy, có thể thấy ông nắm hầu như toàn bộ tri thức đương thời: từ lịch sử Việt Nam và thế giới đến phong tục từng làng xã, từ đời sống ăn ở của dân gian đến đặc điểm chim muông, cây cỏ, từ những tư tưởng tôn giáo thần bí đến nhận thức khoa học mới mẻ về chuyển động của Trái đất quanh Mặt trời. Tác phẩm của ông bao trùm thiên nhiên, xã hội và con người cho thấy một trí tuệ đa ngành hiếm có.
Bạn ông, Trần Danh Lâm, đã nhận xét: “Không sách gì không đọc, không việc gì không suy xét đến cùng… sách chất đầy bàn đầy tủ, kể ra không xiết” (Lời tựa sách Vân Đài loại ngữ). Còn Ngô Thì Sĩ khi đọc Phủ biên tạp lục phải thốt lên rằng mọi sự vật “rõ ràng dễ thấy như nhìn ngón tay trên bàn tay”. Hai nhận định ấy đã phác họa đầy đủ hai phẩm chất hợp thành một học giả lớn: đọc không ngừng để mở mang tri thức, và suy xét đến tận cùng để biến tri thức thành hiểu biết có giá trị thực tiễn.
Lê Quý Đôn còn là một nhà khoa học tự nhiên tầm quốc tế. Khi khảo sát dân số, động thực vật hay khoáng sản, ông cẩn thận ghi chép bằng những thanh tre cật. Đặc biệt, qua việc liên hệ sự phân bố của một số loài cây với khoáng sản nằm dưới lòng đất, ông được xem như người đặt nền móng cho ngành “địa chất thực vật học”, một lĩnh vực mà thế giới chỉ xác lập rõ ràng từ những năm 1960. Ông đã chỉ ra được mối liên hệ giữa thực vật và các mạch quặng vàng, sắt, kẽm dưới sâu.
Chẳng hạn, từ việc quan sát một số giống cây và liên hệ sinh thành của chúng với vài loài khoáng sản đặc trưng, ông đã chứng minh rằng nơi nào trên mặt đất có nhiều cây ‘thanh hao’ thì dưới sâu của đất có vàng ở dạng hạt ; nơi nào trên mặt đất có nhiều cây ‘rau má’ mọc rậm rạp hoặc cây ‘hà thủ ô’, thì dưới sâu của đất có quặng sắt (limonit/hematit/manhetit), còn nơi nào trên mặt đất có nhiều cây ‘cà lam’mọc xum xuê, một giống cà quả tròn to, màu lam hoặc tía thì dưới sâu của đất có quặng kẽm (dưới dạng silicat hydrat kẽm - calamin).
Vạch trần lối học cầu danh, tầm chương trích cú
Giữa thời phong kiến đầy biến động, Lê Quý Đôn không chỉ hiện lên như một nhà bác học “đọc sách không biết mệt mỏi và viết sách không mệt mỏi”, mà còn như một người thầy xuất sắc, tận tâm đặt nền móng cho tư tưởng giáo dục Việt Nam.
Mở trường dạy học, đào tạo nhiều học trò, rồi khi vào triều ông vẫn không rời vai trò người thầy: giảng dạy, bình văn cho giám sinh, tổ chức các kỳ thi Hội, thi Đình và tuyển chọn nhân tài cho đất nước. Uy tín của ông đến từ học vấn uyên thâm, nhân cách khiêm nhường và cách ứng xử của một bậc sư biểu.
Lê Quý Đôn, "người thầy của những người thầy". Ảnh tư liệu.
Nhưng điểm làm nên khác biệt của Lê Quý Đôn là tầm nhìn giáo dục vượt thời đại. Ông lên tiếng phê phán nền học tầm chương trích cú, chỉ nhằm thi cử và cầu danh. Trong Kiến văn tiểu lục, ông viết thẳng: “Cái học ấy làm cho lời bàn luận sáng suốt bẵng đi… Gặp có việc thì rụt rè, cẩu thả, thấy lúc nguy thì bán nước để toàn thân”. Ông cũng nhìn rõ sự phù phiếm của lối “trau chuốt từng câu, từng chữ” để tâng bốc nhau trong thơ phú, coi đó là thứ làm mục ruỗng trí tuệ.
Trong Vân đài loại ngữ, ông mạnh mẽ đề nghị đổi mới giáo dục: không chỉ học kinh điển mà phải học đủ “lục nghệ”, bao gồm cả văn tự lẫn vũ bị. Với ông, học phải hiểu cái chính, biết suy luận và quan trọng nhất là học để hành: “Sách không hết lời, lời không hết ý… phải hiểu ngầm ý của thánh nhân ở ngoài lời sách”, “đọc sách một thước không bằng hành được một tấc”.
Lê Quý Đôn còn nhìn giáo dục như một chỉnh thể toàn diện. Ông dạy cha mẹ rằng “dạy con phải dạy cho có nghề nghiệp”, và trẻ phải được rèn “biết sợ hãi, biết hổ thẹn, biết khó nhọc” để thành người. Ông quan tâm cả đạo đức, khoa học, thẩm mỹ, thể chất, những tư tưởng vượt xa khuôn khổ Nho học đương thời.
Giản dị trong đời sống, uyên bác trong học vấn, khắt khe với chính mình và rộng mở với tri thức, Lê Quý Đôn để lại hình ảnh một người thầy lớn: vừa dạy người, vừa dạy đời, vừa tự dạy mình. Di sản ấy khiến tên ông vẫn được đặt cho trường học khắp nơi như một lời nhắc về tấm gương “thầy của các thầy” trong sử Việt.
Mai Nguyễn
Nguồn Tri Thức & Cuộc Sống : https://kienthuc.net.vn/nguoi-thay-loi-lac-dam-vach-tran-loi-hoc-cau-danh-hon-200-nam-truoc-post1586119.html