La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp: Nhà cải cách giáo dục soi sáng thời đại

La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp: Nhà cải cách giáo dục soi sáng thời đại
6 giờ trướcBài gốc
Tượng thờ La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp. Ảnh: ITN
Hơn hai thế kỷ trước, trên núi Thiên Nhẫn (Hà Tĩnh), một bậc ẩn sĩ đã dành cả đời cho giáo dục, khước từ danh lợi, lấy việc “học để biết đạo” làm gốc.
La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp không chỉ là một nhà nho thanh cao, mà còn là người đặt nền tảng cho tư tưởng giáo dục khai phóng Việt Nam. Từ triều đại Tây Sơn cho tới hôm nay, “phép học” của ông vẫn là lời nhắc về đạo lý, nhân cách và con đường đổi mới giáo dục căn bản.
Giữ đạo học giữa buổi ly loạn
Theo “Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam”, Nguyễn Thiếp, tự là Khải Xuyên, hiệu La Sơn phu tử, sinh năm Quý Mão (1723) tại làng Mật Thôn, xã Nguyệt Áo, tổng Lai Thạch, huyện La Sơn, trấn Nghệ An (nay là Hà Tĩnh). Ông nội, ông ngoại, chú và cậu của Nguyễn Thiếp đều là những người học giỏi, đỗ cao, nổi tiếng một vùng.
Thuở nhỏ, Nguyễn Thiếp cùng ba người anh em trai được chú ruột là Tiến sĩ Nguyễn Hành trực tiếp dạy dỗ. Dưới sự rèn giảng nghiêm cẩn của bậc khoa bảng, cả bốn anh em đều nổi tiếng học giỏi, trong đó Nguyễn Thiếp đặc biệt nổi trội nhờ tư chất thông minh và lòng ham đọc sách không mệt mỏi. Năm 19 tuổi, khi Nguyễn Hành giữ chức Hiến sát sứ Thái Nguyên, ông đưa cháu ra xứ Thái theo học. Sau đó, Nguyễn Thiếp lại được gửi đến chỗ Hoàng giáp Nguyễn Nghiễm - thân phụ của Đại thi hào Nguyễn Du, để tiếp tục rèn luyện, mở rộng tri thức học vấn.
Tuy nhiên, chưa đầy một năm sau, Nguyễn Hành đột ngột qua đời tại nhiệm sở. Nỗi mất mát khiến Nguyễn Thiếp rời Thái Nguyên, tìm đường trở về Thăng Long. Khi đến vùng Đông Anh, ông lâm trọng bệnh. Nhờ được dân làng cưu mang, ông thoát khỏi cái chết, song để lại di chứng về tinh thần. Có những lúc trí óc mờ mịt không còn nhận biết được mọi việc. Nhưng bằng ý chí kiên cường và tinh thần tự chủ, Nguyễn Thiếp đã vượt qua cơn bạo bệnh, dần lấy lại thăng bằng và tiếp tục chuyên tâm vào việc học hành.
Năm 1743, Nguyễn Thiếp dự kỳ thi Hương tại Nghệ An và đỗ thủ khoa, song thay vì tiếp tục đường khoa cử, ông chọn con đường ẩn dật, chuyên tâm vào việc đọc sách, tu dưỡng. Năm Mậu Thìn (1748), ông ra Bắc dự thi Hội, chỉ đỗ đến tam trường (kỳ 3), rồi vào Bố Chính dạy học.
Đến năm 1756, khi 33 tuổi, Nguyễn Thiếp được triều đình mời ra làm quan, giữ chức Huấn đạo tại Anh Đô (phủ Anh Sơn, Nghệ An). Sáu năm sau, ông được thăng làm Tri huyện Thanh Giang. Tuy nhiên, giữa thời buổi loạn lạc, “chúa ác, vua hèn”, giặc giã liên miên, lòng trung quân ái quốc và nỗi ưu thời mẫn thế trong ông ngày càng lớn.
Không chịu nổi cảnh quan trường đảo điên, Nguyễn Thiếp quyết định rũ áo từ quan vào năm 1786, lên núi Thiên Nhẫn lập trại, sống cuộc đời ẩn dật, chuyên tâm dạy học và nghiên cứu. Từ nơi sơn dã, tiếng tăm của ông lan truyền khắp cả nước, là một bậc đạo đức thanh cao, học vấn uyên thâm, nhân cách sáng tựa gương. Nhiều lần chúa Trịnh vời ra giúp, song ông đều khước từ, giữ trọn tiết tháo và chí khí của bậc hiền sĩ.
Người dân vùng Nghệ Tĩnh vẫn lưu truyền cách Nguyễn Thiếp dạy học. Ông không chỉ dạy chữ, mà dạy người, dạy đạo lý, lễ nghĩa, nhân tâm. Nhiều học trò của ông sau này trở thành hiền sĩ, văn thần, tướng lĩnh giúp nước.
Không chỉ là một học giả - nhà giáo dục, La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp còn bày mưu tính kế giúp Quang Trung đánh bại 29 vạn quân Thanh. Ảnh minh họa: ITN
Bậc thầy thiên hạ và “phép học” vì dân vì nước
Khi phong trào Tây Sơn nổi dậy, Nguyễn Huệ sai cận thần Trần Văn Kỷ ra Bắc Hà chiêu mộ hiền tài, mời các sĩ phu danh tiếng cộng tác cùng triều đại mới. Trong chuyến đi ấy, khi gặp danh sĩ Nguyễn Nghiễm, Trần Văn Kỷ được nghe lời giới thiệu đầy trọng thị: “Đạo học sâu xa thì có Lạp Phong cư sĩ, văn chương phép tắc thì có Thám hoa Nguyễn Huy Oánh, còn tuổi trẻ đa tài đa nghệ thì Nguyễn Huy Tự”.
Người được Nguyễn Nghiễm tôn xưng là “Lạp Phong cư sĩ”, hàm ý “bậc ẩn sĩ nơi núi Lạp Phong, đạo học uyên thâm” chính là La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp - nhà nho được xem là biểu tượng của học vấn và nhân cách trong giới sĩ phu thời bấy giờ.
Năm Bính Ngọ (1786), sau khi tiến quân ra Bắc dẹp họ Trịnh, Nguyễn Huệ trên đường trở về Phú Xuân đã nghe danh La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp là bậc học giả uyên thâm, đạo cao đức trọng. Kính trọng tài đức ấy, ông thân gửi thư cùng lễ vật ra Nghệ An, tha thiết mời Nguyễn Thiếp vào Phú Xuân phò tá đại nghiệp. Tuy nhiên, Nguyễn Thiếp khéo léo từ chối. Trong thư hồi đáp, ông nêu ba lẽ: Bản thân là thần tử nhà Lê, nay tuổi đã cao, tài hèn sức mọn, khó có thể giúp ích cho triều đại mới.
Không nản lòng, tháng Tám năm 1787, Nguyễn Huệ tiếp tục sai Lưu thủ Nguyễn Văn Phương và Binh bộ Thị lang Lê Tài ra Nghệ An dâng thư, bày tỏ lòng thành mời ông vào triều. Nguyễn Thiếp vẫn một mực khiêm nhường từ chối. Đến lần thứ ba, Nguyễn Huệ lại phái Thượng thư Hình bộ Hồ Công Thuyên mang thư và lễ trọng đến mời. Song, trước sau như một, Nguyễn Thiếp vẫn thoái thác.
Tháng Tư năm Mậu Thân (1788), trên đường ra Bắc dẹp loạn Vũ Văn Nhậm, đại quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy dừng chân ở Nghệ An. Tại đây, ông cử Cẩn Tín hầu Nguyễn Quang Đại mang thư và lễ vật đến mời Nguyễn Thiếp hội kiến. Lần này, trước tấm lòng thành và lời khẩn khoản của vị anh hùng áo vải: “Trẫm không vì riêng mình mà vì trăm họ”, Nguyễn Thiếp đã cảm động nhận lời. Ông rời am tranh trên núi Thiên Nhẫn, về Phú Xuân yết kiến Nguyễn Huệ, cùng bàn việc chỉnh đốn triều chính, chấn hưng quốc gia. Từ buổi gặp ấy, Nguyễn Huệ dành cho Nguyễn Thiếp lòng kính trọng đặc biệt, tôn xưng ông là “bậc thầy của thiên hạ”.
Đền thờ vua Quang Trung trên núi Quyết Nghệ An - nơi được chỉ định xây Phượng Hoàng Trung Đô. Ảnh: Trần Hòa
Nguyễn Thiếp từng so sánh: “Ngọc bất trác bất thành khí, nhân bất học bất tri lý”. Ngọc nếu không được mài giũa thì chẳng thể trở thành đồ quý, con người nếu không học thì không thể hiểu rõ đạo lý làm người. Từ lẽ ấy, việc học là điều tiên quyết, học phải có nền tảng, phải đi từ thấp đến cao để mở mang tri thức và rèn luyện nhân cách.
Tuy nhiên, trước khi học, người học cần xác định rõ mục đích của mình. Việc học không phải để tìm kiếm danh vọng, địa vị hay lợi lộc cá nhân; càng không chỉ để mưu cầu vinh thân, phì gia. Người có chí học chân chính phải hướng đến điều cao cả, là học để lập đức. Nếu học mà không có mục đích đúng, việc học sẽ bị biến tướng, trở thành nấc thang danh vọng tầm thường.
Lối học như thế chỉ sinh ra những kẻ “nịnh thần”, làm hại đạo lý và khiến xã hội suy đồi. Học mà không hành, học chỉ để cầu danh, là con đường dẫn đến sự sa sút của triều chính và dân trí. Trái lại, La Sơn phu tử khẳng định: “Đạo học thành thì người tốt nhiều, người tốt nhiều thì triều đình ngay ngắn, thiên hạ thịnh trị”.
Từ triết lý ấy, Nguyễn Thiếp phát triển một hệ thống tư tưởng giáo dục sâu sắc, được hậu thế gọi là “phép học La Sơn phu tử”. Phép học ấy gồm ba tầng: Học để làm người, học để hành đạo, và học để giúp đời. Ông phê phán gay gắt thói học cầu danh, học từ chương, học chỉ để đỗ đạt. Đó là tư tưởng tiến bộ vượt thời đại, đề cao năng lực thực hành, gắn tri thức với nhân cách.
Nguyễn Thiếp còn nêu rõ giáo dục phải bắt đầu từ “tiểu học”, học đạo lý, luân thường, chữ nghĩa cơ bản; sau mới đến “đại học”, học trị nước, an dân. Ông chủ trương đạo đức là gốc của trí thức, người dạy học phải là tấm gương sáng, “dạy điều mình làm được, không nói điều mình không hành được”.
Khu Lăng mộ La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp được xây dựng trên núi Bùi Phong thuộc dãy Thiên Nhẫn, nay thuộc xã Thiên Nhẫn, tỉnh Nghệ An. Ảnh: ITN
Tư tưởng khai phóng gắn với đời sống
Một điểm đáng chú ý trong tư tưởng của Nguyễn Thiếp là ông không chỉ đề cao đạo đức, mà còn đặc biệt coi trọng lao động. Trong bài “Sơn cư tác”, ông viết: “Thế sự chi bằng đọc với cày/ Lụt thì ta nghỉ, ráo ra tay/ Học đừng vụn vặt nên suy rộng/ Sách chẳng cần nhiều, cốt tinh hay”.
Quan niệm truyền thống Nho giáo thường đề cao lao động trí óc, coi nhẹ lao động chân tay. Nguyễn Thiếp lại có cách nhìn khác, đặt việc “đọc sách” và “cày ruộng” ngang hàng, xem cả hai đều là những hoạt động chân chính và cần thiết. Đây là tư tưởng tiến bộ, vượt ra ngoài khuôn khổ giáo điều của Nho gia, thể hiện tinh thần thực tiễn và nhân văn sâu sắc.
Thực tế cuộc sống của Nguyễn Thiếp cũng phản chiếu đúng tư tưởng ấy. Ông chọn sống thanh đạm nơi thôn dã, hòa mình với ruộng đồng, vừa dạy học vừa lao động. Với ông, đạo học không tách rời đời sống, mà chính là con đường để con người tự rèn luyện, sống trong sạch và hữu ích. Ông dạy người khác như thế, và cũng tự mình thực hành như thế, thể hiện tấm gương hiếm có giữa thời loạn.
Đền thờ La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp tại xã Trường Lưu, tỉnh Hà Tĩnh. Ảnh: ITN
Các nhà nghiên cứu đánh giá “Phép học” của Nguyễn Thiếp là hệ triết lý giáo dục nhân bản đầu tiên của Việt Nam, đặt nền móng cho tư tưởng “học đi đôi với hành” và “giáo dục toàn diện” ngày nay.
Khi ra giúp nước, La Sơn phu tử được vua Quang Trung giao trọng trách cải tổ hệ thống học hành, thi cử. Ông giúp vua soạn “Luận học pháp”, đề ra nguyên tắc chấn hưng giáo dục; đồng thời chỉ đạo lập Sùng Chính thư viện, đề xuất nhiều cải cách, như: Dịch kinh sách Nho học từ chữ Hán sang chữ Nôm để phổ biến rộng rãi trong dân chúng; tổ chức thi cử bằng chữ Nôm, nhằm “đem chữ nước nhà làm gốc cho việc học”; chú trọng thực học, đưa kiến thức về nông - công - binh vào chương trình giảng dạy; tuyển chọn người tài đức thực sự, bỏ lối thi cử hình thức.
Nhờ đó, nền giáo dục Tây Sơn mang tinh thần khai phóng hiếm có, đề cao dân trí, đạo lý và tri thức gắn với thực tiễn. Tư tưởng của Nguyễn Thiếp cũng ảnh hưởng mạnh đến chính sách của Quang Trung. Sử chép rằng, trong một sắc chỉ gửi La Sơn phu tử, vua viết: “Trẫm muốn lấy học hành mà mở mang nhân tài, lấy lễ nghĩa mà dạy dân làm gốc”.
Câu ấy chính là sự cộng hưởng giữa ý chí của Quang Trung và trí tuệ của Nguyễn Thiếp, tạo nên một cặp vua - thầy độc đáo trong lịch sử khi cùng chung lý tưởng khai dân trí. Dù triều đại Tây Sơn tồn tại ngắn ngủi, những cải cách ấy đã mở đầu cho tư tưởng hiện đại, coi giáo dục là quốc sách, lấy nhân dân làm trung tâm, và xem việc học là con đường duy nhất để phát triển đất nước.
Điều khiến Nguyễn Thiếp được hậu thế kính trọng không chỉ là học vấn, mà còn ở nhân cách của một người thầy trọn đạo. Ông nhiều lần từ chối tước vị, bổng lộc, xin về quê dạy học. Cuộc sống giản dị, tự cày ruộng, mở lớp dưới chân núi, nhận dạy học trò bất kể sang hèn, thậm chí nuôi nấng những người nghèo hiếu học. Vì thế, các nhà nghiên cứu xem ông là biểu tượng cho mẫu nhà giáo Việt Nam cổ điển “thanh bạch, uyên thâm, tận tụy và khiêm nhường”.
Vua Quang Trung từng nói: “Trẫm quý thầy như quý nhân tài thiên hạ”. Không chỉ đặt nền móng cho sự nghiệp giáo dục dưới triều Tây Sơn, La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp còn được vua Quang Trung tin cậy giao phó trọng trách đặc biệt, là chọn địa điểm xây dựng kinh đô mới của triều đại. Theo lời tấu trình của ông, vùng đất nằm giữa núi Dũng Quyết, thuộc Nghệ An hội tụ đủ thế “long chầu hổ phục”, sông núi hài hòa, vừa thuận lợi phòng thủ vừa thuận lợi giao thương.
Kinh đô mới ấy được Quang Trung đặt tên là Phượng Hoàng Trung Đô, với khát vọng biến nơi đây thành trung tâm chính trị, văn hóa của đất nước sau khi thống nhất. Tiếc rằng, khi công trình mới bắt đầu, vua Quang Trung đột ngột băng hà, khiến đại nghiệp dang dở.
Dù triều đại Tây Sơn tồn tại ngắn ngủi, nhưng tầm nhìn chiến lược và tư tưởng kiến thiết quốc gia của Nguyễn Thiếp luôn được hậu thế đề cao. Ông cũng là một trường hợp hiếm có trong lịch sử được cả bốn nhà cầm quyền đương thời trọng vọng: Chúa Trịnh Sâm mời ra giúp nước, vua Quang Trung và Cảnh Thịnh đều nhiều lần cầu kiến, còn chúa Nguyễn Ánh cũng gửi thư thỉnh mời. Sự kính trọng từ các phe đối lập ấy cho thấy vị thế đặc biệt của Nguyễn Thiếp - một bậc hiền triết, cả đời phụng sự cho đạo lý và vận mệnh quốc gia, vượt lên trên mọi tranh chấp quyền lực của thời đại.
Trần Siêu
Nguồn GD&TĐ : https://giaoducthoidai.vn/la-son-phu-tu-nguyen-thiep-nha-cai-cach-giao-duc-soi-sang-thoi-dai-post757019.html