Du khách hòa mình vào các hoạt động văn hóa của đồng bào dân tộc vùng hồ Ba Bể. (Ảnh: THU TRANG)
Đây không còn là một trào lưu nhất thời mà đang dần hình thành một xu hướng, làm sinh động thêm bức tranh du lịch cộng đồng nhiều tiềm năng.
Sự hấp dẫn của mô hình này không chỉ nằm ở tính mới mẻ hay độc đáo, mà còn mang đến sự chân thực và gần gũi bởi chính những người thực hiện. Ở vùng , bên cạnh vẻ đẹp hoang sơ của núi rừng thì sự phong phú trong văn hóa tộc người chính là chất liệu vô giá để khai thác du lịch.
Với lợi thế là người bản địa, sinh ra và lớn lên giữa núi đồi, nhiều bạn trẻ hiểu tường tận từng nếp nhà, từng ngọn núi, từng câu chuyện quê hương. Họ chính là “người dẫn đường bản địa”, giúp du khách đắm mình vào cảnh quan thiên nhiên kỳ thú và bước chân vào những miền văn hóa thông qua những điều giản dị như: mùi khói bếp, vị cơm lam, điệu khèn gọi bạn hay lời dân ca vọng giữa rừng già. Du lịch lúc này không chỉ là hành trình tham quan, khám phá, mà trở thành cuộc gặp gỡ giữa người kể chuyện và người lắng nghe.
Sự linh hoạt, sáng tạo và cá nhân hóa cao là những điểm mạnh nổi bật của mô hình này. Những sản phẩm du lịch như tour trekking (leo núi) xuyên rừng, kể chuyện dân gian, nấu món ăn truyền thống, canh tác cùng đồng bào… được xây dựng không theo lối mòn mà mang tính khám phá cao, tạo nên nét riêng biệt không thể sao chép. Đồng thời, mô hình này tạo sinh kế tại chỗ, giúp giữ chân lao động trẻ, làm hồi sinh những bản làng nghèo khó hàng trăm năm qua.
Tuy nhiên, cách làm này cũng đối diện với không ít khó khăn. Phần nhiều những người làm du lịch trẻ tự phát đều ít được đào tạo bài bản, dẫn tới lỗ hổng về kỹ năng cứu hộ, , phòng cháy chữa cháy; thiếu bảo hiểm và hợp đồng dịch vụ rõ ràng gây rủi ro cho du khách. Hơn nữa, phần lớn hoạt động này chưa có sự liên kết chặt chẽ với chính quyền địa phương khiến công tác hỗ trợ khi có sự cố trở nên bị động.
Nhưng sẽ là phiến diện nếu nhìn nhận những điều đó như những bất cập cần siết chặt. Vấn đề là làm sao để đồng hành, hướng dẫn và tạo điều kiện cho mô hình này phát triển. Không thể yêu cầu người trẻ làm du lịch bài bản nếu họ không được tiếp cận các khóa đào tạo.
Không thể kỳ vọng họ tuân thủ đầy đủ quy định nếu không có cơ chế tư vấn pháp lý, hỗ trợ kỹ thuật và giám sát chuyên môn. Hệ thống chính sách, quy định phải đóng vai trò đồng hành: tổ chức đào tạo miễn phí về kỹ năng du lịch, truyền thông số, sơ cứu và phòng chống thiên tai; hỗ trợ mô hình khởi nghiệp bản địa; kết nối người trẻ với doanh nghiệp và ngành du lịch chuyên nghiệp.
Khi người trẻ vùng cao làm du lịch, họ không chỉ tạo ra sản phẩm mà còn đang góp phần làm giàu cho những vùng đất xa xôi. Họ kể lại câu chuyện quê hương bằng chính ngôn ngữ cảm xúc và trải nghiệm sống của mình. Đó là biểu hiện rõ nét của một ngành du lịch đang dịch chuyển về chất: không lệ thuộc vào hạ tầng lớn hay đầu tư ồ ạt, mà xuất phát từ con người, cộng đồng và bản sắc.
Để hành trình ấy không đơn độc, cần sự vào cuộc từ nhiều phía: chính quyền với hành lang pháp lý rõ ràng, ngành du lịch với vai trò kết nối và kiểm định chất lượng, doanh nghiệp với cơ chế đồng hành và hỗ trợ kỹ thuật. Hơn hết, chính những người trẻ - với đam mê, sự sáng tạo và tình yêu quê hương sẽ là lực lượng tiên phong, mở đường cho một chiến lược bền vững từ gốc rễ, sống động từ cộng đồng, và chân thực từ chính những “người dẫn đường bản địa”.
ĐỖ HIÊN