Nguồn gốc người Việt
Vị trí địa lý của Việt Nam đã khiến đây trở thành một nơi qua lại của các đường giao thông quốc tế, và nhiều dân tộc di dân từ Bắc tới Nam hoặc từ Nam tới Bắc, qua bánh xe thời gian đều để lại dấu vết trên đất nước này, cũng như nhiều dân tộc khác từ đại dương đi vào lục địa, hoặc từ lục địa tiến ra miền bể cũng đã dừng chân trên đất Việt Nam, và sự chung đụng hỗn độn hợp chủng đã lập nên những sắc dân ngày nay cùng xây dựng đất nước Việt Nam.
Các nhà nhân chủng học và các sử gia khi nghiên cứu về nguồn gốc dân tộc ta (cũng như nghiên cứu về nguồn gốc bất cứ một dân tộc nào) đã dựa vào nhiều yếu tố như các truyền thuyết, các di tích lịch sử, những kết quả của các nghiên cứu nhân chủng học...
Người Việt có những truyền thống văn hóa nghìn năm. Ảnh: Tranh Đông Hồ trên Cổng thông tin điện tử Bắc Ninh.
Theo truyền thuyết
Lạc Long Quân lấy nàng Âu Cơ đẻ ra bọc trứng nở ra trăm con, thì dân tộc Việt Nam thuộc dòng dõi con Rồng cháu Tiên.
Đã là truyền thuyết, tất hoang đường. Nhưng nếu gạt ra ngoài cái hoang đường ta thấy truyền thuyết ấy có ẩn một vài sự thật rất phù hợp với sử Tàu và những ức thuyết lịch sử khác.
Theo sử Tàu
Thời thượng cổ, sử Tàu nói rằng xưa kia tổ tiên dòng Hán tộc từ phía Nam núi Thiên Sơn, tràn đến đánh đuổi người Tam Miêu phải chạy vào rừng núi để chiếm lấy lưu vực sông Hoàng Hà. Người Tam Miêu hoặc chạy vào rừng hoặc lùi xuống phía Nam. Tới các đời Nghiêu, Thuấn, Hạ, Thương, sử Tàu có nói đến những giống Man di (dòng dõi của giống Tam Miêu?). Ở lưu vực sông Dương Tử được khai hóa sớm hơn cả là nhóm Giao Chỉ. Nhóm này sống tản mát thành nhiều quốc gia phôi thai mà cuối đời Chu, người Tàu gọi là Bách Việt.
Về sau, các bộ lạc Bách Việt bị Hán tộc (người Tàu chính thống) thôn tính và đồng hóa hết dần, chỉ trừ nhóm Lạc Việt cư ngụ ở trung châu sông Nhị và sông Mã là thoát nạn Hán hóa, nên vẫn giữ được những đặc tính Việt tộc. Do đó, sau khi nhà Hán thôn tính được Lạc Việt, họ vẫn gọi Lạc Việt là Giao Chỉ (Giao Chỉ có hai nghĩa: là đất của người Giao và hai ngón chân cái giao nhau).
Sau Sử ký Tư mã Thiên gọi dân tộc Việt Nam ta là Âu Việt, còn theo sách Địa dư chí thì đời Chu, Giao Chỉ gọi là Lạc Việt, đời Tần gọi là Tân Âu.
Căn cứ vào những nét sử Tàu trên đây thì ta thấy rằng dân tộc Việt Nam ta không cùng nòi giống với người Hán tộc như nhiều người vẫn lầm tưởng.
Ức thuyết của các nhà nhân chủng học và sử gia
Về nguồn gốc dân tộc ta, các nhà nhân chủng học và sử gia đưa ra nhiều ức thuyết khác nhau. Đáng chú ý hơn cả là các giả thuyết sau đây:
* Ức thuyết thứ nhất: Người Việt Nam thuộc dòng giống Thái lai Mông Cổ (hay Tạng Miến) từ Tây Tạng, Vân Nam theo sông Hồng Hà kéo xuống Trung châu Bắc Việt.
* Ức thuyết thứ hai: Tổ tiên người Việt Nam là những người Giao Chỉ từ miền Hoa Nam kéo xuống lập nghiệp ở Trung châu sông Hồng Hà.
* Ức thuyết thứ ba: Một số các nhà nhân chủng học, căn cứ vào các bộ xương người, vào các dụng cụ thời cổ của tổ tiên ta đào được, kết luận rằng dân tộc Việt Nam thuộc gốc tạp chủng Mê-la-nê Anh-đô-nê-diêng: người Anh-đô-nê-diêng thì bị giống A-ri-ăng đánh đuổi từ Ấn Độ tới, còn người Mê-la-nê thì từ các đảo Tây Nam Thái Bình Dương lên.
Theo những nhà ngôn ngữ học
Ngày nay, các nhà ngôn ngữ học, sau khi phân tích tỉ mỉ tiếng nói của các bộ lạc người Thượng, mà một số nhà nghiên cứu đã cho đó là một nguồn gốc dân Việt Nam, đã xếp các loại thổ ngữ đó theo hai nguồn ngôn ngữ chính:
* Loại ngôn ngữ malaio Polynesien: Đây là ngôn ngữ căn bản của thổ dân thuộc một vùng rộng lớn từ đảo Papua ngoài Thái Bình Dương qua quần đảo Nam Dương đến tận Madagascar ở phía Tây Nam và Đài Loan (Trung Quốc) phía Bắc.
Trong nước Việt Nam, tiếng Chàm, Rhade, Roglai, Churu, Mudur, Blo thuộc ngành này...
* Loại ngôn ngữ môn Khmer: Phạm vi của loại ngôn ngữ này hẹp hơn, gồm có ngôn ngữ của thổ dân Miến Điện, Mã Lai và các dân tộc thuộc chủng loại Khmer hay chịu ảnh hưởng của Khmer.
Trong nước Việt Nam, tiếng Khatu, Teu, Die, Sedang, Rowngao, Bahnar, Strieng, Mnonggar, Cil, Lat, Maa, Sré thuộc loại này.
Ngoài tiếng Việt Nam ra là tiếng Mường ở Bắc Việt cũng thuộc nguồn gốc Môn Khmer.
Căn cứ vào ngôn ngữ, chúng ta có thể tìm thấy sự liên hệ huyết thống của các sắc dân và do đó, tìm được ngôn ngữ xa xôi của từng giống người.
Những người nói loại tiếng Malaio Polynesien thuộc nguồn gốc chủng tộc Austronesien và những người nói loại tiếng Môn Khmer thuộc nguồn gốc chủng tộc Austroasiatique.
Căn bản huyết hệ của giống Austronesien là người Melanesien Papouas, còn căn bản huyết hệ chủng tộc Austroasiatique là người Indonesien. Tuy nhiên, các nhà nhân chủng học thường gọi chung hai loại này là Indonesien.
Toan Ánh/ NXB Trẻ