Trong quá trình nghiên cứu, các nhà học giả đều ghi nhận: Nước Âu Lạc kế tiếp nước Văn Lang và An Dương Vương kế ngôi Vua Hùng là sự kiện, nhân vật lịch sử có thật. Song về nguồn gốc Thục Phán - An Dương Vương còn có ý kiến khác nhau. Những tài liệu cổ ở Trung Quốc như Giao Châu Ngoại vực ký, Quảng Châu ký đều ghi: An Dương Vương là “Thục Vương Tử” (con vua Thục). Sách Hậu Hán thư chép về quận Giao Chỉ cũng chú thích: ‘‘Đấy là nước cũ của An Dương Vương…”, một số sách cổ khác ở Trung Quốc cũng ghi rằng An Dương Vương là con vua Thục, nhưng không cho biết xuất xứ cụ thể của vua Thục và vua Thục là ai.
Một số sử sách cổ của Việt Nam như Việt sử lược (thế kỷ XIV) cũng ghi: ‘‘Cuối đời Chu, Hùng Vương bị con vua Thục là Phán đánh đuổi mà lên thay. Phán đắp thành Việt Thường (Cổ Loa - Đông Anh - Hà Nội) xưng hiệu là An Dương Vương, không thông hiếu với nhà Chu”. Đến thế kỷ XV, khi biên soạn Đại Việt sử ký toàn thư - Ngô Sĩ Liên dựa vào Lĩnh Nam chích quái chép về An Dương Vương rõ hơn và gọi là “Kỷ nhà Thục”, ông viết: “An Dương Vương họ Thục, tên húy là Phán, người Ba Thục, ở ngôi 50 năm, đóng đô ở Phong Khê (nay là Cổ Loa). Giáp Thìn, năm thứ nhất (257 năm trước công nguyên). Vua đã kiêm tính nước Văn Lang đổi quốc hiệu làm Âu Lạc”.
Nhà sử học Ngô Thì Sĩ - cuối thế kỷ XVIII, khi chép về An Dương Vương cũng nhắc lại như Đại Việt sử ký toàn thư, nhưng đã bác bỏ giả thuyết An Dương Vương “họ Thục”. Ông khẳng định: “An Dương Vương húy Phán, người Ba Thục. Không đúng”.
Đến thời vua Tự Đức (1848 - 1883), bộ thông sử Khâm định Việt sử thông giám cương mục, lại nêu nghi vấn: “Nước Thục từ năm thứ 5 đời Thận Tĩnh Vương nhà Chu (316 năm trước công nguyên), đã bị nhà Tần diệt rồi, làm gì còn vua nữa? Huống chi từ Thục đến Văn Lang, còn có đất Kiển Vi, đất Cùng, đất Tác và đất Nhiễm Mang (những đất này xưa kia là đất mọi rợ ở về phía Tây và Nam, nay thuộc Vân Nam cách hàng hai ba ngàn dặm, có lẽ nào Thục vượt qua được các nước ấy mà sang đánh lấy nước Văn Lang”. Trong Việt sử lược, Trần Trọng Kim cùng khẳng định: “Nhà Thục chép trong sử nước ta không phải là nhà Thục bên Tàu (nghĩa là Ba Thục Tứ Xuyên)”. Ngô Tất Tố cũng khẳng định: “Nước Nam không có ông An Dương Vương nhà Thục”. Các sử gia từ thời phong kiến Việt Nam đã nghi ngờ cả thời gian và không gian; qua đó có thể thấy rõ: nước Thục đã bị diệt từ năm 316 trước công nguyên. Vua Thục cuối cùng là Khai Minh đã bị giết ở Vũ Dương và Thái tử con vua Thục cũng đã chết ở Bạch Lộc Sơn. Vì vậy không thể có “con vua thục” vượt hàng ngàn dặm núi rừng, qua lãnh thổ của nhiều nước để tiến đánh và chiếm nước Văn Lang năm 257 trước công nguyên được. Sự khác biệt dẫn đến mâu thuẫn đó càng làm rõ thêm những căn cứ đáng nghi ngờ, cho nên có thể phủ định giả thuyết nguồn gốc Ba Thục của Thục Phán - An Dương Vương.
Việc nghiên cứu về Thục Phán - An Dương Vương càng ngày càng được nhiều người quan tâm. Cho nên đã thu được một số kết quả mới, phát hiện thêm về tư liệu, từ đó một số giả thuyết mới được đặt ra.
Đó là năm 1963, các nhà nghiên cứu dân tộc học phát hiện, dịch và công bố truyền thuyết “Cẩu chủa cheng vùa” (Chín chúa tranh vua) là câu truyện cổ rất phổ biến trong đồng bào Tày vùng Cao Bằng. Mặc dù là truyền thuyết, nhưng gạt bỏ những yếu tố truyền thuyết là những hạt nhân lịch sử, nên có thể thấy được: “Thục Phán là thủ lĩnh của một liên minh bộ lạc người Tây Âu ở phía Bắc nước Văn Lang, theo truyền thuyết của đồng bào Tày thì liên minh bộ lạc đó là “nước Nam Cương” gồm 10 xứ mường (9 mường của 9 chúa và 1 mường trung tâm của Thục Phán) tức 10 bộ lạc hợp thành với địa bàn cư trú gồm vùng nam Quảng Tây, Cao Bằng và có thể rộng hơn, cả vùng núi rừng phía bắc Bắc Bộ, mà trung tâm là Cao Bằng”.
Nước Nam Cương trở nên cường thịnh. Lúc đó nước láng giềng Văn Lang của vua Hùng suy yếu, lại đang đứng trước họa xâm lăng của nhà Tần, vua Hùng giao quyền chỉ huy kháng chiến chống Tần cho Thục Phán. “Thục Phán vốn là một thủ lĩnh của người Tây Âu trên địa bàn phía Bắc nước Văn Lang lúc bấy giờ gồm cả một phần nam Quảng Tây, mà trung tâm là Cao Bằng. Sau khi một tù trưởng Tây Âu là Dịch Hu Tống hy sinh, Thục Phán cùng nhiều thủ lĩnh người Tây Âu và Lạc Việt khác đã tiếp tục tổ chức cuộc chiến đấu chống quân Tần” và trận chiến do tướng Lý Bính chỉ huy tại khu vực từ Hoằng Ngà đến Chu Trinh (nay thuộc thành phố Cao Bằng) tiêu diệt hơn 300 quân Tần là một trong những chiến thắng lớn trong kháng chiến chống quân Tần xâm lược.
Di tích thành Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội). Nguồn ảnh: Internet
Sau khi kháng chiến thắng lợi, Thục Phán được vua Hùng nhường ngôi, Thục Phán đã sáp nhập hai vùng lãnh thổ Tây Âu và Lạc Việt thành lập nước Âu Lạc, hiệu là An Dương Vương, đóng đô ở Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội). Hiện nay ở đền Hùng còn có di tích ghi lại sự kiện này, đó là “hòn đá thề” ghi dấu tích về Thục Phán sau khi được vua Hùng truyền ngôi đã thề: ‘‘Noi gương các vua Hùng quyết giữ vững cơ đồ Hùng - Thục”.
Truyền thuyết (Cẩu chủa tranh vùa) còn được minh chứng bằng các di vật và các địa danh cụ thể tại Cao Bằng, nó gắn liền với những câu chuyện thi tài của các chúa. Giả thuyết về nguồn gốc Thục Phán là người Cao Bằng còn được phản ánh trong các thần tích, ngọc phả, trong các nghi thức thờ cúng.
Từ truyền thuyết trên, nhiều nhà nghiên cứu đã tập trung về Cao Bằng tìm quê hương Thục Phán và tin rằng Thục Phán là thủ lĩnh của một liên minh bộ lạc người Tây Âu ở phía Bắc nước Văn Lang, đó là nước “Nam Cương, gồm 10 xứ mường (9 mường của chín chúa và một mường trung tâm của Thục Phán), tức 10 bộ lạc hợp thành, với địa bàn cư trú gồm vùng nam Quảng Tây, Cao Bằng và có thể rộng hơn, cả vùng núi rừng, phía bắc Bắc Bộ, mà trung tâm là Cao Bằng”. Giáo sư Đào Duy Anh đã nói: “Sự phát hiện truyền thuyết của người Tày trên kia đã khiến chúng tôi thay đổi nhiều ý kiến tranh cãi ức thuyết về sự thành lập nước Âu Lạc mà chúng tôi đã trình bày trong sách lịch sử cổ đại Việt Nam… Chúng ta có thể nói một cách đại khái rằng miền nam sông Tả Giang và lưu vực sông Hữu Giang cùng với thượng lưu các sông Lô, sông Gâm, sông Cầu là địa bàn sinh tụ của những bộ lạc Tây Âu hợp thành bộ lạc liên hiệp Nam Cương mà Thục Phán là tù trưởng tối cao”.
Trong bài Bàn về nước Âu Lạc và An Dương Vương, tác giả Nguyễn Duy Hinh cho rằng Thục Phán là người đứng đầu một nhóm Lạc Việt, Tây Âu là một nước của người Việt, do đó “xung đột Hùng - Thục thực chất là cuộc đấu tranh nội bộ Âu Lạc”. Đến nay nhiều thần tích và truyền thuyết về Hùng Vương và An Dương Vương đều coi Thục Phán thuộc dòng dõi, tông phái hoặc là “cháu ngoại” của vua Hùng.
Thêm một minh chứng cho sự liên kết về nguồn gốc và mối quan hệ giữa Vua Hùng với Thục Phán - An Dương Vương nữa là việc phát hiện những hiện vật quý giá được dùng trong cuộc kháng chiến chống quân Tần xâm lược. Đó là những mũi tên đồng được Thục Phán - An Dương Vương dùng cho nỏ thần, đến nay cũng chỉ phát hiện tại Hà Nội và Cao Bằng, Thanh Hóa liên quan việc An Dương Vương chạy qua Thanh Hóa vào Nghệ An. Đó là những cơ sở để làm sáng tỏ nguồn gốc cùng mối quan hệ có sự liên hệ hợp lý cả không gian và thời gian trong mối quan hệ của Thục Phán - An Dương Vương với vua Hùng và các sự kiện lịch sử.
Qua những thư tịch và tư liệu, truyền thuyết trên có thể khẳng định: Thục Phán là người Tày cổ, là thủ lĩnh liên minh Bộ lạc Tây Âu mà trung tâm là Cao Bằng. Điều đó còn được minh chứng là: Đến nay những tập tục, truyền thuyết dân gian tại Cổ Loa và vùng xung quanh cũng phù hợp với cách lý giải về nguồn gốc Thục Phán - An Dương Vương là người Tày cổ giống như truyền thuyết “Chín chúa tranh vua”, và “Trong tâm thức dân gian vùng Cổ Loa luôn ghi nhớ nguồn gốc “người thượng du, một tù trưởng miền núi” của Thục Phán. Thậm chí còn nói rõ quê gốc của Thục Phán - An Dương Vương là Cao Bằng”.
Như vậy không chỉ nhân dân Cao Bằng và các nhà khoa học khẳng định mà cả một phần nhân dân ở phía bắc Bắc Bộ từ xa xưa đã coi Thục Phán - An Dương Vương có quê gốc ở Cao Bằng.
Hồng Viễn