Giữa thế gian đầy biến động, Tăng Ni chính là rường cột, là hiện thân của Tam bảo, miệt mài gìn giữ và xiển dương giáo pháp. Ngày nay, thế hệ Tăng Ni trẻ đang vươn mình, không chỉ là người thừa kế mạng mạch Phật pháp mà còn là những sứ giả Như Lai đầy nhiệt huyết, mang theo tâm lực trẻ trung, trí tuệ khai mở và lòng từ bi vô hạn để đưa ánh đạo vào đời, làm rạng rỡ ngôi nhà Phật pháp.
Đối với người xuất gia, điều trọng yếu không phải là thừa hưởng tài vật thế gian, mà là thừa hưởng đạo nghiệp từ Như Lai. Đức Phật từng dạy: “Này các Tỳ-kheo, hãy là người thừa tự pháp, chớ là người thừa tự tài vật” (Dhammadāyādā me bhikkhave bhavatha, mā āmisadāyādā – Aṅguttara Nikāya). Hòa thượng Trúc Lâm thượng Thanh hạ Từ chủ trương thiền giáo song hành, tức là tu học đồng thời, không có trước sau. Học thông hành thấu, suốt tột diệu lý Phật Tổ. Tu trong cảnh tịnh như tọa thiền, tụng kinh… cho đến trên cảnh động như làm các công việc trong tùng lâm, phụng sự nhân sinh. Có học mới nắm được đường lối, phương pháp thực hành, có hành mới soi thấu đến các chỗ còn ẩn khuất chưa sáng trong tâm, tránh các sai lệch.
Hòa thượng Minh Giáo Tung cũng từng dạy: “Cái học của Thánh hiền, quyết định không phải học một ngày mà đầy đủ được. Ban ngày học không đủ phải học tiếp đến ban đêm, gom góp năm này tháng khác, tự nhiên mới thành”. Học cốt để hiểu những ý hay, những kinh nghiệm của các bậc Thánh hiền, trước áp dụng cho bản thân, sau nữa đem phổ vào trong đời sống, cứ thật tình tu học, không tính kể thời gian, càng tu càng bổ ích cho việc học, càng học càng có kinh nghiệm cho việc tu. Kiến thức có được từ sự trui luyện, thể nghiệm, tu tập của bản thân mới thực sự có giá trị nuôi dưỡng đạo đức.
Thiền sư Bách Trượng cũng dạy rằng: “Nếu trong tâm cầu phước cầu trí, đều ở trong sanh tử”. Học phải đi đôi với hành mới có kết quả tốt. Nếu chỉ chăm học lý thuyết bằng tư duy, nghiền ngẫm mà không nỗ lực thực hành sẽ không có thực chứng. Tựa như ăn bánh vẽ, chỉ nhìn no mắt chứ không thực no bụng. Người thế gian càng gom kiến thức về mình càng thành đạt. Ngược lại, người tu càng buông bỏ nhiều càng vươn tới đỉnh cao, bao giờ loại bỏ được những kiến chấp điên đảo của chính mình là thành công. Như vậy có tu mới có nội lực làm chủ thân tâm. Từ những niềm vui nhỏ góp lại thành niềm vui lớn, thực tu thực học chứ không phải nói suông.
Hòa thượng Trúc Lâm dạy: “Trong đời sống hàng ngày, người tu phải vượt qua được đúng sai, nóng lạnh, trái ý hay thuận tình, đừng để ba mớ phiền não đánh lừa. Ngay trên những hạnh nghi thông thường mà chuyển hóa tập khí, sống với bản tánh chân thật thì đạo lực sẽ vững vàng. Sống trong đại chúng để rèn luyện thân tâm cho an ổn trước cảnh duyên bên ngoài, mới ngăn ngừa được các tệ tình”. Nếu chỉ học hiểu thì mới đạt được tiêu chí giáo dục, phải ứng dụng và rèn luyện để chuyển hóa phàm tình thành tựu thánh trí, mới đúng nghĩa tu luyện. Ba phương diện: Học, tu và lao động rèn luyện đã trở thành kim chỉ nam để giáo dục và đào tạo các thiền sinh trong các thiền viện.
Pháp của Phật như nước mưa có vị ngọt, rưới khắp cỏ cây lớn nhỏ, tùy mỗi loại mà hấp thụ có sai biệt. Tu tập cũng thế, tùy căn cơ của mỗi người mà sự lãnh hội giáo pháp khác nhau. Dù căn cơ nào cũng cần có sự tha thiết mới có thể hàm dưỡng công phu liên tục. Khi phát tâm tu, tuy chúng ta không muốn bị cuốn theo ngũ dục, nhưng vì tập nghiệp tích lũy quá nhiều nên đầu tròn áo vuông mà tâm chưa được vuông tròn. Thế nên, việc khó khăn nhất là điều phục được tâm mình. Làm sao gội nhuần giáo pháp Như Lai vào cuộc sống hàng ngày, giữ mình ở lại trong phước hạnh, chủng duyên Phật pháp.
Hòa thượng Nhật Quang cũng từng dạy rằng: “Người tu cần phải lập chí vững mạnh, kiên quyết đấu tranh với chính mình, không nhún nhường cho những lý lẽ của tâm thức ma mị. Được vậy dù một bước rất nhỏ rất chậm, nhưng bước đúng sẽ đến nơi đến chốn. Trái lại, bước nhảy thật dài, nhưng thiếu vững chãi sẽ đưa ta đến hiểm họa khó lường. Thà là không làm, hễ làm thì phải đúng. Thà là không tu, hễ tu thì phải nỗ lực cho được an ổn và lợi lạc”.
Bên cạnh đó, đệ tử Phật dù tu theo pháp môn nào cũng lấy giới luật làm nền tảng căn bản. Vì giới luật là mạng mạch của Phật pháp, là thọ mạng của Tăng-già. Giới luật do Đức Phật chế định là những nguyên tắc sống làm nên phạm hạnh, đạo đức của người xuất gia. Thiền sư Pháp Loa đã dạy: “Trong hai mươi bốn giờ ngoài dứt các duyên, trong tâm không dấy động. Tâm không dấy động nên cảnh đến vẫn an nhàn”. Giữ giới như thế sẽ đạt đến chân ngã trong bốn đức Niết-bàn (thường, lạc, ngã, tịnh) mà Phật đã chỉ dạy. Khi sáu căn không dính sáu trần thì giới tự tròn đủ, không khởi lên ý niệm hơn thua phải quấy chấp trước thì định tuệ hiện tiền. Soi tỏ nguồn tâm để làm mô phạm cho chúng sanh. Từng giới điều là từng viên gạch xây nên bức tường thành kiên cố, bảo vệ giới thân huệ mạng cho người tu sĩ, tiên phong trên bước đường hoằng pháp lợi sanh. Chúng con có thể kém tài nhưng đối với giới pháp đã lãnh thọ, luôn cố gắng tịnh như băng tuyết.
Thế hệ Tăng Ni trẻ ngày nay không chỉ là người gìn giữ đạo nghiệp mà sẽ tiếp tục thắp sáng Phật pháp trong từng nhịp thở của thời đại. Muốn đạo pháp hưng thịnh, nhân dân an lạc thì không thể thiếu những người xuất gia trẻ tuổi đầy tâm huyết, lý tưởng, có tuệ giác và biết phụng sự. Họ chính là những đóa sen giữa bùn, là ánh đuốc truyền đăng tiếp nối từ ngàn xưa đến mai sau. Có như vậy, mới xứng đáng là người kế thừa Tổ đức, hóa độ chúng sanh trong thời đại nhiều thách thức.
Lời giáo huấn sau cùng của Đức Phật trong kinh Di giáo vẫn còn vang vọng từ xưa đến nay: “Này các Tỳ-kheo! Hãy tự thắp đuốc lên mà đi. Hãy lấy Chánh pháp làm đuốc, lấy Chánh pháp làm nơi nương tựa, không nương tựa một điều gì khác”.
An Chí/Báo Giác Ngộ