Nhà thơ Cao Ngọc Thắng (trái) và tác giả.
Chàng trai ấy hẳn đã làm thơ từ rất lâu, nhưng mãi đến năm 2009 anh mới đứng tên cho một tập thơ riêng - Bẻ gió (Nhà xuất bản (NXB) Thanh niên). Các năm sau, năm nào Cao Ngọc Thắng cũng xuất bản thơ (bên cạnh các tập truyện, bút ký, sách nghiên cứu chính trị): Giao mùa (NXB Hội Nhà văn, 2010); Thức hạ (NXB Hội Nhà văn, 2011); Trở nồm (NXB Văn học, 2012); Mùa không nhà (NXB Văn học, 2013). Đứt khoảng năm 2014. Năm 2015, Cao Ngọc Thắng cho ra Bên sông Mẹ (NXB Văn học). Rồi chẳng hiểu vì sao, mười năm sau, Cao Ngọc Thắng mới xuất bản Khúc chuyển mùa (NXB Hội Nhà văn, 2025), dù anh vẫn thường in thơ trên các báo?
Trước đây, giáo sư Phan Ngọc, người bình thơ sành sỏi ngôn từ, ngợi khen Cao Ngọc Thắng đã tìm kiếm sự đổi mới hình thức đích thực của thơ là cách nó tồn tại trong trí nhớ của người đọc. Quả đúng vậy! Đọc thơ Cao Ngọc Thắng, nếu không quen biết, ít ai nghĩ đây là thơ của một người đã/đang làm báo. Anh thật kiệm lời, không phung phí chữ nghĩa. Nhiều bài thơ của Cao Ngọc Thắng chỉ có đôi ba dòng, mỗi dòng lại có vài ba chữ, thậm chí vài chữ. Ví như bài này: Chửa dậy mùa/ hương cốm/ núp lá sen/ đợi (Đợi, tập Thức hạ). Hay: Nụ cười che đơn côi/ Nước mắt tràn hạnh phúc (Thơ hai dòng/ Giao mùa)... Vậy mà, hình như những bài thơ ngắn ấy neo vào lòng người thật lâu: Sắp sang đông rồi đó/ Sao thu còn vấn vương/ Heo may vừa đứng ngọn/ Thu neo vào giọt sương... (Sương/ Khúc chuyển mùa). Bởi đấy không phải là sản phẩm dễ dãi! Cao Ngọc Thắng làm thơ có phần nghiêm cẩn. Tôi dẫn dụ một bài thơ anh viết nhân ngày giỗ Mẹ năm Quý Mão (2013). Khi in lần đầu ở tập Bên sông Mẹ, mang tên Mẹ (1). Mười năm sau, vẫn bài thơ ấy, ở tập Khúc chuyển mùa, tác giả ghi tựa đề: Mẹ - Tầm xuân (2). Một vài câu thơ, bản sau có khác, dù chỉ là ngắt dòng, hay bớt đi vài chữ:
- (1) Lưng còng/ Mẹ nâng vòm trời lên cao; (2) Lưng còng - Mẹ/ nâng vòm trời lên cao
- (1) Nước mắt Mẹ chảy xuống/ Thấm vào lòng đất/Trào nước biển mênh mông; (2) Nước mắt Mẹ chảy xuống/ Thấm vào lòng đất/ Biển mênh mông.
Mười năm, sửa một câu thơ Lưng càng còng mặt Mẹ càng gần mặt đất (1) thành Lưng càng còng Mẹ càng gần đất (2) đấy không chỉ là nghiêm cẩn với thơ mà trước hết là, với Mẹ, với Đời!
Hơn mười năm trước, tôi từng viết về Cao Ngọc Thắng:
“Sắc vàng là đặc trưng của thu.
Khi mùa thu đi vào trái tim Cao Ngọc Thắng, vì lơ đãng vắt qua dải lụa hồng của dòng sông xứ sở rồi se cùng mây gió, sắc vàng đã phai thành sắc xanh. Sắc xanh của tươi non, trong trẻo và thanh khiết. Sắc xanh của dịu ngọt mà lắng sâu, bất chợt mà viên miễn.
Sắc màu của hồn thơ Cao Ngọc Thắng là thế” (Đây, một hồn thơ xanh sắc thu).
Bây giờ, tôi miên man nghĩ về điệu hồn ở Cao Ngọc Thắng. Tập thơ đầu tay của anh mang tên Bẻ gió. Tra các từ điển tiếng Việt, không thấy từ này, nhưng ai cũng hiểu và hình dung được. Nó gần nhưng không đồng nghĩa với trở gió, bởi bất ngờ, mạnh mẽ và hung bạo hơn, để nói về sự thay đổi của tiết trời, khí hậu. Tên các tập thơ sau của Cao Ngọc Thắng (trừ Bên sông Mẹ) đều nói về sự thay đổi ấy: Giao mùa; Thức hạ; Trở nồm; Mùa không nhà; Khúc chuyển mùa.
Bìa tập thơ Khúc chuyển mùa mới xuất bản của nhà thơ Cao Ngọc Thắng.
Trong thơ Cao Ngọc Thắng, mùa hiện hữu khắp nơi. Đầu tiên, đó là bốn khoảng thời gian, dài ba tháng, được con người phân định thành Xuân, Hạ, Thu, Đông nối tiếp nhau trong một năm. Cao Ngọc Thắng không viết nhiều về bốn mùa ấy. Nhà thơ cũng sớm nhận ra sự tương đối ở cách phân chia đó: Đông-Tây-Nam-Bắc/ Xuân-Hạ-Thu-Đông/Chân trời tròn/ Bập bênh/ Mọc - lặn/ Mặt trời/ Xa lắc/ Quay (Bập bênh/ Bẻ gió).
Mùa của Cao Ngọc Thắng có dáng vẻ, hình thù, có âm thanh, mùi vị: Bởi nắng xuân non/ Gió xanh bối rối/ Hạ tròn đỉnh núi/ Trăng mềm lưng ong/ Thu se thương nhớ/ Cúc chờ mở rượu/ Giục/ Đông/ Ủ ấm men nồng... (Giao mùa/ Giao mùa).
Mùa của Cao Ngọc Thắng, khi là cố nhân để người ta thương nhớ, đợi chờ: Chỉ một lần/ Thu đi ngang nỗi nhớ/ Rắc vàng giấy tinh khôi/ Hồn thu/ lay/ trang nắng (Chỉ một lần). Khi là thiếu nữ đồng làng: Em gánh - vụ mùa/ Chân làng - khói thở (Gánh mùa/ Thức hạ). Khi là, Em trở mình Nàng Bân trở rét/ Trời trở nồm anh trở yêu (Tháng ba/ Trở nồm). Có mùa đi, mùa đến: Bước thu đi mang mang thổn thức/ Hồn cuốc kêu nhưng nhức tận cuối dòng (Bên sông Mẹ). Có Mùa trở dạ đất cựa mình ngây ngất (Khúc chuyển mùa). Có mùa thao thức, hanh hao: Thao thức mùa/ bờ bãi/ cựa phù sa... (Hà Nội 30 Tết); Cao nguyên đá mùa lên ngút ngát (Đá trở mình/ Khúc chuyển mùa). Có Mùa không nhà/ lang thang về trống vắng/ Cánh hoa im bặt chốn nao... (Thu này không nồng nàn hoa sữa/ Mùa không nhà)...
Và, nhiều, nhiều nữa. Điệu mùa cũng chính là điệu thơ Cao Ngọc Thắng. Có lẽ vì thế, không gì Hà Nội, quê nhau rún, ở nơi nào Cao Ngọc Thắng đến anh cũng cảm nhận điệu hồn của nơi ấy. Tôi khép lại những dòng về người trai Hà thành với bài thơ anh viết về Nhơn Trạch cách nay gần mười năm và nó nằm trong số những vần thơ hay nhất thời hiện đại về vùng đất Đồng Nai:
Tôi đến đây/ Cành xanh lá xào xạc/ Hương rừng êm giấc ngủ ngàn năm/ Những anh hùng Rừng Sác năm xưa...
Từ địa đạo này/ Đoàn 10 đặc công/ Đêm đêm trầm mình sông nước/ Từ địa đạo này/ Tuổi đôi mươi/ Các anh vụt bay / Lên trời sao
Tôi ngước lên/ Mây vờn dải lụa / Những vòng tay/ Tuổi rất xanh/ Các anh/ Choàng ôm tất cả/ Dòng sông/ Vườn cây/ Hoa trái/ Các em thơ ca hát đánh vần... (Nơi tôi đến/ Khúc chuyển mùa).
Cao Ngọc Thắng từng viết: Mùa đã hết chẳng hay/ Hạ cứ lang thang/ khiến thu bật khóc/ lá hóa vàng (Hạ và Thu/ Mùa không nhà). Mùa đến, mùa đi. Nhưng mùa sẽ ở lại mãi trong ký ức của người đời. Bởi có thơ...
Trần Hương Thủy