Nhà văn Đoàn Giỏi, tên thật Đoàn Văn Hòa, sinh ngày 17/5/1925 tại Tân Hiệp, Châu Thành, Tiền Giang (bây giờ thuộc tỉnh Đồng Tháp). Ông là con thứ 4 trong 10 người con của một gia đình điền chủ. Dù có theo học Trường Mỹ thuật Gia Định, nhưng nhà văn Đoàn Giỏi lại chọn con đường cầm bút. Truyện ngắn đầu tay "Nhớ cố hương" viết năm 1943 của nhà văn Đoàn Giỏi, được đăng trên Nam Kỳ tuần báo do Hồ Biểu Chánh làm chủ bút.
Nhà văn Đoàn Giỏi qua nét vẽ của họa sĩ Nguyễn Đình Phúc.
Trong kháng chiến chống Pháp, nhà văn Đoàn Giỏi có một thời gian tham gia ngành Công an ở quê nhà, rồi chuyển sang công tác ở Hội Văn nghệ Nam Bộ. Giai đoạn này, ông có những tác phẩm tiêu biểu là tập bút ký "Khí hùng đất nước", tập truyện ngắn "Đường về gia hương" và vở kịch thơ "Người Nam thà chết không hàng".
Năm 1954, nhà văn Đoàn Giỏi tập kết ra Bắc. Năm 1957, nhà văn Đoàn Giỏi không chỉ tham gia thành lập Hội Nhà văn Việt Nam mà còn sáng tác truyện dài nổi tiếng "Đất rừng phương Nam". Sau khi non sông thống nhất, nhà văn Đoàn Giỏi định cư ở TP Hồ Chí Minh và có thêm nhiều tác phẩm chuyên khảo về môi trường thiên nhiên như "Những chuyện lạ về cá" hoặc "Tê giác trong ngàn xanh".
Nhà văn Đoàn Giỏi mất ngày 2/4/1989. Ông được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2001. Trải qua một thế kỷ, kể từ khoảnh khắc nhà văn Đoàn Giỏi chào đời, công chúng có được một nhân vật cầm bút giúp cộng đồng lưu giữ và gắn bó với trầm tích lịch sử và văn hóa Nam Bộ.
Cuộc sống của một cộng đồng trong "Đất rừng phương Nam" được tái hiện thật sinh động và thật gần gũi: "Chúng tôi giở những nắm cơm vắt ra. Ăn xong, bấy giờ bóng nắng mới bắt đầu lên. Gió cũng bắt đầu thổi rao rao theo với khối mặt trời tròn đang tuôn ánh sáng vàng rực xuống mặt đất. Một làn hơi nhè nhẹ tỏa lên phủ mờ những bụi cây cúc áo, rồi nhè nhẹ tan dần theo hơi ấm mặt trời. Phút yên tĩnh của rừng ban mai dần dần biến đi. Chim hót líu lo. Nắng bốc hương hoa tràm thơm ngây ngất. Gió đưa mùi hương ngọt lan ra, phảng phất khắp rừng. Mấy con kỳ nhông nằm vươn mình phơi lưng trên gốc cây mục, sắc da lưng luôn luôn biến đổi từ xanh hóa vàng, từ vàng hóa đỏ, từ đỏ hóa tím xanh... Con Luốc động đậy cánh mũi, rón rén mò tới. Nghe động tiếng chân con chó săn nguy hiểm, những con vật thuộc loại bò sát bốn chân, to hơn ngón chân cái kia, liền quật chiếc đuôi dài chạy tứ tán. Con núp chỗ gốc cây thì biến thành màu xám vỏ cây. Con đeo trên tấm lá ngái thì biến ra màu xanh lá ngái".
Tọa đàm kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Đoàn Giỏi, có sự tham gia của nhiều tác giả hậu sinh như Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Thị Minh Thái, Bích Ngân, Hữu Việt, Trầm Hương, Hữu Nhân, Cao Chiến… Các ý kiến đều tái khẳng định tài văn chương của nhà văn Đoàn Giỏi không dừng ở những trang văn miêu tả thiên nhiên, mà ông có bút pháp riêng để xây dựng chân dung những con người bình dị để lại nhớ nhung sâu sắc.
Chẳng hạn, nhân vật Võ Tòng chỉ cần vài nét phác thảo để đủ gây ấn tượng: "Một người đàn ông, cổ lộ hầu, đen như cột nhà cháy, cởi trần, cao lêu đêu, đang hiện ra trước lửa. Hai hố mắt ông ta sâu hoắm và từ trong đáy hố mắt sâu đó, một cặp mắt trong trắng dã, long qua long lại, sắc như dao. Mái tóc hung hung như bờm ngựa phủ dài xuống gáy".
Cảm hứng thiên nhiên và con người Nam bộ chiếm lĩnh trọn vẹn sự nghiệp sáng tác của nhà văn Đoàn Giỏi. Không chỉ với "Đất rừng phương Nam", hầu hết tác phẩm của ông đều mang đậm phong vị Nam Bộ, cốt cách Nam Bộ. Có thể nói Đoàn Giỏi là nhà văn Nam Bộ tiêu biểu luôn xem thiên nhiên là một đối tượng thẩm mỹ quan trọng của văn chương. Ông gắn kết thiên nhiên và con người thành một chỉnh thể thống nhất. Thiên nhiên bồi đắp hồn vía con người, và con người ân cần gìn giữ thiên nhiên. Trong mỗi trang văn Đoàn Giỏi, sự được mất của thiên nhiên chính là sự thành bại của con người.
Quang cảnh lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Đoàn Giỏi.
Nhắc đến nhà văn Đoàn Giỏi, hầu như giới mộ điệu và giới nghiên cứu lập tức nhớ ngay "Đất rừng phương Nam". Đây là một sự may mắn mà cũng là một sự thiệt thòi cho văn chương Đoàn Giỏi. Mức độ phổ biến của "Đất rừng phương Nam" với sự trợ lực nghệ thuật thứ bảy, đã che mờ hết những tác phẩm có giá trị khác của nhà văn Đoàn Giỏi. Nếu thực sự thưởng thức vẻ đẹp văn chương, thì hai truyện dài "Cá bống mú" và "Hoa hướng dương" viết trực diện về đất và người Nam Bộ, không hề thua kém "Đất rừng phương Nam".
Tọa đàm nhân dịp 100 năm sinh nhật nhà văn Đoàn Giỏi, có thể xem như một khoảng lặng cần thiết để độc giả suy ngẫm sâu sắc hơn về những đóng góp của ông. Có thể khẳng định, nhà văn Đoàn Giỏi là một trường hợp tác giả Nam bộ độc đáo có bút pháp riêng ngay từ lúc khởi nghiệp cầm bút, mà không hề bị tác động bởi dòng chảy thời gian. Nhiều nhà văn Nam bộ đi theo cách mạng cùng thời Đoàn Giỏi như Hoàng Văn Bổn (1930-2006), Nguyễn Quang Sáng (1932-2014) hoặc Anh Đức (1935- 2014), đã có sự thay đổi rất nhiều về lối viết (trước và sau khi tập kết ra Bắc) nhưng nhà văn Đoàn Giỏi vẫn nhất quán một phong cách.
Nhà văn Đoàn Giỏi không lạm dụng phương ngữ có tính khác biệt, mà ông dùng ngôn ngữ phổ thông nhất để biểu đạt. Phong vị đặc sắc Nam Bộ trong tác phẩm Đoàn Giỏi làm người ta say đắm vì những số phận được ông miêu tả, vì những câu chuyện được ông kể lại, vì những không gian được ông tái hiện.
Ví dụ, truyện ngắn "Cây đước Cà Mau" được nhà văn Đoàn Giỏi viết trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ, có một đoạn văn rất sinh động: "Tôm cá thì đủ thứ, thiếu gì! Tôm càng xanh bằng cườm tay, tép xà búi bằng ngón chân cái, tép bạc lưới về, đổ đống như đồng lúa cả trăm giạ. Cá dứa thì có mùa, thuộc loại ngon nhất ở đây. Thịt mềm ngọt xớt. Nấu canh chua ngon lắm. Mỗi tháng có hai ngày ba khía hội. Nước rong, ba khía leo đầy lên rễ, lên thân cây đước, cây vẹt. Ba khía làm mắm, chở lên tới Mỹ Tho, Sài Gòn. Cua biển cũng nhiều lắm. Các trại đáy kéo lên, chỉ lấy cá tép. Cua cho ai bắt thì bắt. Thường thường thì đổ xuống sông lúc không có người mua. Cua lột tháng tám mới ngon, và thịt chắc nhất. Bụng đầy gạch son. Lớp luộc, lớp chiên bột, lớp làm mắm nhận trong muối hột. Chừng nào ăn, lấy ra rửa sạch tán nhuyễn, trộn với đường, mỡ, tỏi ớt, chấm với tôm nướng, thịt luộc, ăn rau sống bánh tráng không gì bằng. Còn nói gì sò huyết, vọp, nghêu, cứ nước kém chèo thuyền ra lấy bò cào, cào đổ lên chớ hơi nào mà bắt...".
Sòng phẳng mà nói, tầm vóc của nhà văn Đoàn Giỏi vẫn chưa được hậu sinh đánh giá đầy đủ. Điều này có thể thấy qua hai tài liệu chuyên môn là "Từ điển văn học" và kỷ yếu "Nhà văn Việt Nam hiện đại" đều đưa ra những thông tin chưa thật chuẩn xác về tác phẩm của Đoàn Giỏi. Trong "Từ điển văn học" (bộ mới ấn hành năm 2004) chỉ có hai mục từ liên quan nhà văn Đoàn Giỏi, một mục từ nhận định về sự nghiệp Đoàn Giỏi khá sơ lược và một mục từ giới thiệu "Đất rừng phương Nam" khá vắn tắt.
"Từ điển văn học" viết rằng truyện dài "Cá bống mú" được Đoàn Giỏi sáng tác năm 1955 trên đất Bắc, nhưng chính Đoàn Giỏi lại ghi chú hoàn cảnh sáng tác ở dòng cuối cùng của "Cá bống mú" rất mạch lạc: "Nam bộ tháng 10 năm 1952, viết tại Phân liên khu miền Tây". Còn trong kỷ yếu "Nhà văn Việt Nam hiện đại" do Hội Nhà văn Việt Nam biên soạn, lại ghi chú "Cá bống mú" được Đoàn Giỏi sáng tác năm 1956. Ngoài ra, kỷ yếu "Nhà văn Việt Nam hiện đại" còn ghi chú "Hoa hướng dương" là tập truyện ngắn được Đoàn Giỏi sáng tác năm 1960. Thực tế, "Hoa hướng dương" là một truyện dài có dung lượng hơn 200 trang in, được chia làm 3 chương.
Cả "Từ điển văn học" và kỷ yếu "Nhà văn Việt Nam hiện đại" đều ghi chú tác phẩm biên khảo "Tê giác giữa ngàn xanh" được nhà văn Đoàn Giỏi viết năm 1982. Bạn đọc chắc chắn sẽ nghi ngờ cột mốc "năm 1982", bởi lời bạt của nhà văn Tô Hoài dành cho lần xuất bản đầu tiên "Tê giác giữa ngàn xanh" có đề rõ: "Hà Nội, hè 1978". Trình tự cố hữu xưa nay, tác phẩm có trước, lời bạt có sau, không thể ngược lại. Trong lời bạt "Tê giác giữa ngàn xanh", nhà văn Tô Hoài biểu dương: "Đọc Đoàn Giỏi rất lý thú, vừa văn chương lại vừa cho người đọc nhiều kiến thức. Hay lắm".
Lê Thiếu Nhơn