Văn học Việt Nam sau 1975: Dùng 'ngọn lửa' nhân văn thổi bùng khát vọng đổi mới

Văn học Việt Nam sau 1975: Dùng 'ngọn lửa' nhân văn thổi bùng khát vọng đổi mới
3 giờ trướcBài gốc
Các nghệ sỹ thể hiện các tác phẩm tại Ngày Thơ Việt Nam năm 2025. (Ảnh: Thế Duyệt/TTXVN)
Khi văn học biết tự làm mới mà vẫn giữ cốt lõi dân tộc, khi người viết có niềm tin, ý chí sáng tạo, khi người đọc tìm lại được xúc động, đó là lúc văn học Việt Nam thật sự bước vào cuộc hồi sinh.
Đó là nhận định của Chủ tịch Hội Nhà Văn Việt Nam Nguyễn Quang Thiều trong hội thảo “Văn học Việt Nam sau năm 1975: Thành tựu, vấn đề và triển vọng” diễn ra ngày 6/10 tại Hà Nội,
Xoa dịu những vết thương hậu chiến
Nhìn lại dòng chảy văn học nước nhà nửa thế kỷ qua, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam cho rằng văn học Việt Nam đã ghi nhận nhiều thành tựu nổi bật trên cả bình diện sáng tác và lý luận phê bình: Sự đa dạng thể loại, nội dung; cảm thức dân tộc và khát vọng nhân văn; tư duy hội nhập, cùng sự trưởng thành của đội ngũ văn nghệ sỹ.
Quang cảnh hội thảo. (Ảnh: Minh Thu/Vietnam+)
Theo Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, văn học Việt Nam từ năm 1975 đến nay đã đi qua những chặng đường vô cùng quan trọng.
Chặng đường thứ nhất là sau năm 1975, đất nước thống nhất, diện mạo, bình diện, chân dung của văn học Việt Nam đã khác, bao gồm cả văn học các tỉnh thành phía Bắc, phía Nam và văn học hải ngoại.
Giai đoạn quan trọng của văn học Việt Nam sau năm 1975 là giai đoạn Đổi mới. Giai đoạn này có rất nhiều khuynh hướng, các trường phái, mỹ học mới của nghệ thuật trong tất cả các thể loại, trong văn, trong thơ ca, trong lý luận phê bình, trong dịch thuật. Văn học dịch là một phần vô cùng quan trọng, tác động rất lớn trong sáng tác của văn học Việt Nam, góp phần đa dạng về khuynh hướng, về cấu trúc, về thể loại trong sáng tác của văn học Việt Nam.
Việc nhìn lại văn học trước 1975 ở cả hai miền với tinh thần sử liệu, khách quan hơn đã giúp hoàn thiện bản đồ lịch sử văn học, giúp thế hệ sau có cái nhìn toàn diện hơn về truyền thống và những giá trị bị lãng quên. Cùng với đó, văn học các vùng miền, văn học dân tộc thiểu số, văn học thiếu nhi... ngày càng được quan tâm và lan tỏa nhờ mạng lưới xuất bản, thư viện, nhà sách ngày càng phát triển.
“Sau 1975, hiện thực đời sống đất nước mở ra bức tranh phong phú, đa dạng từ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, đến những vấn đề gai góc như tham nhũng, khủng hoảng niềm tin, biến đổi môi trường... đó là nguồn chất liệu sống động cho sáng tạo nghệ thuật,” ông Nguyễn Quang Thiều nói.
Hội thảo giúp thế hệ sau có cái nhìn toàn diện hơn về truyền thống và những giá trị bị lãng quên. (Ảnh: Minh Thu/Vietnam+)
Tuy vậy, văn học Việt Nam vẫn còn những giới hạn: Chất lượng chưa đồng đều, thiếu đội ngũ phê bình mạnh, nội dung đôi khi chưa bật lên bản sắc dân tộc và tính hiện đại, trong khi cơ chế thị trường và chính sách hỗ trợ còn nhiều bất cập. Những thách thức đó đòi hỏi sự đổi mới từ cả người viết, người đọc và cơ quan quản lý văn hóa.
Ông Thiều chỉ ra vật cản lớn nhất của văn học chính là các nhà văn. Nhiều người cầm bút còn ngại thay đổi, an phận trong vùng an toàn, thiếu dấn thân và phản biện.
Theo ông, văn học Việt Nam chỉ có thể bứt phá khi mỗi nhà văn dám soi chiếu lòng dũng cảm, dám đi đến tận cùng sáng tạo, vượt qua lối mòn để tạo ra những tác phẩm có sức lay động và giá trị tư tưởng sâu sắc.
Nhà văn, Đại tá Nguyễn Bình Phương, Tổng Biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội. (Ảnh: CTV/Vietnam+)
Theo nhà văn, Đại tá Nguyễn Bình Phương, Tổng Biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội, ở khía cạnh vị nhân sinh, 50 năm qua, văn học đã làm tốt thiên chức và sứ mệnh của mình. Văn học đã khắc họa được tình thế của dân tộc và cũng khắc họa được thân phận của con người trong dòng chảy đầy biến động của lịch sử phát triển, dù là trong hòa bình. Văn học cũng đã dũng cảm mổ xẻ những vấn đề nóng bỏng nhất của xã hội, “khâu vá” được những vết thương hậu chiến, kiến tạo được những nét văn hóa riêng cho chính nó.
Ngược lại, có những ý kiến nghiêm khắc cho rằng 50 năm qua, văn học của chúng ta chưa làm tốt được chức năng của mình trong việc kiến tạo đời sống tinh thần xã hội theo hướng nhân văn và tốt đẹp. Chưa kịp thời rung những tiếng chuông cảnh báo về những giả dối của xã hội và con người, cũng như trên mặt đạo đức, lý tưởng và phẩm giá.
Ở khía cạnh vị nghệ thuật, văn học 50 năm qua thực sự phong phú, đa dạng, thậm chí là táo bạo. Văn học đã tạo được những nét riêng cho mình so với những giai đoạn trước, đồng thời tạo được một đội ngũ tác giả đông đảo với nhiều tác phẩm. Văn học cũng đã đo được chiều sâu tâm hồn của người Việt thời hiện đại. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng văn học vẫn chủ yếu là một dòng đại thể xuôi chiều. Ít những tiếng nói đa dạng, ít những chuyển động tìm kiếm một cách quyết liệt, triệt để; thiếu những tác phẩm để đời có giá trị, thậm chí thiếu cả những tác giả đủ sức mang văn học Việt Nam ra với thế giới và đứng ngang hàng với thế giới.
Bồi đắp thế hệ người viết trẻ
Tại hội thảo, các đại biểu đã có nhiều tham luận, ý kiến đóng góp thẳng thắn về thành tựu; gợi mở những giải pháp nhằm phát triển văn học Việt Nam.
Giáo sư Phong Lê cho rằng văn học Việt Nam sau 50 năm đang chờ một cuộc chuyển giao thế hệ. Theo đó, lực lượng chủ công trong đội ngũ viết hôm nay phải là thế hệ sinh ra khoảng năm 1990. Thế hệ này gần như không phải chịu một sức ép nào của truyền thống hay lịch sử, mà chỉ chịu một sức ép lớn nhất và duy nhất là sức ép của thời đại.
Ông tin rằng “chỉ một thế hệ trẻ, vừa là sản phẩm của hoàn cảnh, vừa là chủ thể của hoàn cảnh, mới có thể đưa đời sống văn học vào một bước ngoặt mang tính cách mạng.”
Giáo sư Phong Lê, nguyên Tổng Biên tập Tạp chí Văn học. (Ảnh: CTV/Vietnam+)
Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam Nguyễn Quang Thiều cho rằng chúng ta đang bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của trí tuệ nhân tạo và công nghệ số. Hiện đã có những chứng cứ của một số tác phẩm có dùng AI ở mức độ nhất định nào đó.
Tuy nhiên, theo Chủ tịch Nguyễn Quang Thiều, khi nhà văn viết bằng sự sáng tạo của mình, bằng chính kiến của mình, bằng xúc cảm, bằng trí tuệ riêng của mình thì đó chính là vũ khí quan trọng nhất để chống lại sự can thiệp của AI và robot trong sáng tác văn học.
“Nếu chúng ta để cho trí tuệ nhân tạo thay thế cho nhà văn, thì nghĩa là chúng ta đã kết thúc văn học, kết thúc văn học trong bản thể của nó,” nhà thơ Nguyễn Quang Thiều chia sẻ.
Theo đó, trong bối cảnh văn hóa đọc và giá trị sống đang chuyển dịch mạnh mẽ, văn học Việt Nam cần giữ ngọn lửa bên trong - chân thực, sáng tạo và nhân văn, để tiếp tục khơi mở, dẫn dắt và bồi đắp tâm hồn con người Việt trong kỷ nguyên mới.
“Khi văn học biết tự làm mới mà vẫn giữ cốt lõi dân tộc, khi người viết có niềm tin và ý chí sáng tạo, khi người đọc tìm lại được xúc động và đồng cảm sâu xa, đó chính là lúc văn học Việt Nam thật sự bước vào một cuộc hồi sinh, hướng tới tầm vóc mới: Hiện đại, nhân văn, đậm đà bản sắc và hội nhập,” ông Thiều nói./.
(Vietnam+)
Nguồn VietnamPlus : https://www.vietnamplus.vn/van-hoc-viet-nam-sau-1975-dung-ngon-lua-nhan-van-thoi-bung-khat-vong-doi-moi-post1068446.vnp