Bức tranh minh họa
Đọc trong “ngự chế thi” của các vị vua Triều Nguyễn, các vua như Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức đều có nhiều bài thơ về tiết Trung thu. Đa số nội dung đều hướng về cảnh sắc thiên nhiên cùng với nỗi tự hào về giang sơn, nhưng trên hết là niềm ưu tư về cuộc sống của người dân dưới triều đại mình.
Nhân tiết Trung thu, đọc lại một bài thơ như thế của vua Minh Mạng để cùng suy ngẫm về những tâm sự của các bậc hoàng đế. Bài Thơ làm tiết Trung thu đẹp mà không ngắm trăng (Trung thu nguyệt minh bất thưởng tác, in trong Ngự chế thi thi tập, quyển 8, tờ 31b) là một điển hình:
Âm chữ Hán: Trung thu nguyệt minh bất thưởng tác
Trung thu ngọc phách tối tinh oanh,
Canh trị kim tiêu vũ hậu tình.
Vân vụ tứ khai thiên ngoại lãng,
Sơn hà nhất nhập ảnh trung minh.
Lụy nhân hỉ nguyệt hàm ngu ý,
Duy ngã ưu dân độc thiết tình.
Giai tịch nhâm quá chung bất thưởng,
Liêu thù thất tự vật hiềm khinh.
Dịch thơ: Thơ làm tiết Trung thu đẹp mà không ngắm trăng
Trăng thu trong tựa ngọc ngà rơi,
Mưa tạnh đêm nay, sáng cả trời.
Mây tản bốn phương, muôn sắc rạng,
Sông lồng một cõi, bóng nguyệt phơi.
Người vui trăng sáng, tình chan chứa,
Ta bận lo dân, dạ rối bời.
Đêm đẹp bỏ qua, không thưởng nữa,
Làm thơ bảy chữ gửi cao vời.
Nhan đề bài thơ đã gợi lên một bối cảnh “bất thường” trăng đẹp mà không ngắm, cảnh đẹp mà lòng chưa yên, tác giả đã thể hiện tâm sự ưu tư thế sự mang tính thời đại.
Bốn câu thơ mở đầu, vầng trăng thu được ví như “trong như ngọc”, lóng lánh gợi hình ảnh cao quý, thanh nhàn cùng cảnh vật sau cơn mưa trở nên trong trẻo, khoáng đạt, như gột rửa cả đất trời. Thiên nhiên trong bài thơ gợi lên cả không gian rộng lớn, bao la, ngập tràn ánh sáng và vẻ đẹp yên bình. Bức tranh thủy mặc bằng ánh sáng ấy là nền cảnh cho nỗi lòng của nhà vua.
Những câu tiếp theo thể hiện nỗi ưu tư vì dân, vì nước của người đứng đầu thiên hạ:
Người vui trăng sáng, tình chan chứa,
Ta bận lo dân, dạ rối bời.
Đây là hai câu chủ đề của bài thơ, là tâm điểm của xúc cảm khiến tứ thơ hình thành. Trong lúc ai cũng có thể thưởng trăng với những niềm vui cùng thiên nhiên, cảnh vật, với tiết Trung thu dâng đầy, thì nhà vua vẫn nặng ưu tư vì những việc chưa làm được cho dân, cho nước. Suy ngẫm hằn lên những câu từ tuy dung dị nhưng lại chất chứa lý tưởng của Nho gia, như Phạm Trọng Yêm - một danh nho thời Tống - từng quan niệm: “Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc” (lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ). Bởi đó là lẽ sống, là đạo của người quân tử.
Kết lại bài thơ, là tâm thế của nhà vua: không buông mình, không bị cuốn theo cái đẹp nhân gian, mà quên đi những ưu tư về sơn hà xã tắc; không cho phép tự mình “hưởng thụ cái đẹp” khi ngoài kia dân tình còn lao khó. Tấm lòng ấy thật đáng trân trọng.
Bài thơ chỉ tám câu thể thất ngôn nhưng đã gửi trọn sự sâu sắc giữa vẻ đẹp của thiên nhiên và nỗi ưu tư chính trị; giữa ánh trăng sáng và tấm lòng sáng; giữa đất trời và con người. Ở đó, sự độc thoại vô ngôn vốn đằm sâu trong cách nghĩ của hoàng đế; ánh trăng bừng sáng giữa đêm rằm tiết thu xui khiến mà thốt thành lời để làm thơ bảy chữ gửi cao vời (Liêu thù thất tự vật hiềm khinh) mà chẳng mong hồi đáp…
Nguyễn Phước Hải Trung