Nhiều yếu tố thuận lợi hỗ trợ Việt Nam thực hiện khát vọng

Nhiều yếu tố thuận lợi hỗ trợ Việt Nam thực hiện khát vọng
8 giờ trướcBài gốc
TS. Lê Xuân Sang, Phó viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam và Thế giới.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng thực hiện tổng kết những vấn đề lý luận và thực tiễn về công cuộc đổi mới trong 40 năm qua. Về kinh tế, quan điểm của ông thế nào?
Việt Nam đạt mức tăng trưởng tương đối cao và ổn định từ năm 1986 đến nay, tuy nhiên, chưa bao giờ đạt mức tăng trưởng 10%/năm. Mức tăng trưởng trung bình 5 năm đã dần giảm nhẹ trong giai đoạn 2001 - 2015, nhưng tăng dần trở lại kể từ năm 2016.
Trong 5 năm qua, Việt Nam và nhiều nước phải đối diện với các cú sốc như đại dịch Covid-19, xung đột quân sự Nga - Ukraine, bất ổn Trung Đông, Mỹ thắt chặt tiền tệ, suy giảm tăng trưởng/suy thoái kinh tế ở nhiều nước là đối tác của Việt Nam. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn đạt được mức tăng trưởng cao, thể hiện sức chống chịu của nền kinh tế.
Kể từ năm 2000 đến nay, thế giới sống trong môi trường “tứ bất”, đó là: bất ổn (bất ổn chính trị toàn cầu), bất trắc (bạn - thù, đối tác không biết đâu mà lường), bất định (không thể xác định được tương lai sẽ ra sao). Và từ bất ổn, bất trắc, bất định sinh ra bất an. Trong bối cảnh này, Việt Nam vẫn giữ ổn định chính trị, an ninh xã hội được bảo đảm, đó là nền tảng vô cùng quan trọng để phát triển kinh tế cao và khá ổn định. Có được kết quả này là do Việt Nam xây dựng mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là nền kinh tế thị trường có sự can thiệp của Nhà nước. Theo đó, nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, Nhà nước dùng nguồn lực, trong đó có doanh nghiệp nhà nước, để bảo đảm các cân đối vĩ mô. Nhà nước can thiệp vào thị trường nhằm kiến tạo phát triển, chứ không can thiệp thô bạo khiến thị trường bị méo mó.
Có thể nói, trong môi trường “tứ bất”, nhưng dưới sự lãnh đạo uyển chuyển, linh hoạt, “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, không cứng nhắc, giáo điều của Đảng Cộng sản Việt Nam, kể từ khi Đổi mới, kinh tế - xã hội nước ta liên tục phát triển.
Qua gần 4 thập kỷ Đổi mới, Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, nhưng chưa chạm ngưỡng 2 con số. Ông đánh giá ra sao về triển vọng đạt được mức tăng trưởng này trong thời gian tới?
Giai đoạn 2001 - 2005, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 7,33%; giảm xuống còn 6,32% vào 5 năm tiếp theo. Giai đoạn 2011 - 2015, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân tiếp tục giảm xuống chỉ còn 5,47%, nhưng đã phục hồi trở lại với mức 6,19% vào giai đoạn 2016 - 2020. Thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2025, Việt Nam cũng như thế giới phải đối mặt với khủng hoảng y tế chưa từng có, đó là đại dịch Covid-19 và sau đó là suy giảm kinh tế, nhưng tốc độ tăng trưởng GDP bình quân cả giai đoạn vẫn đạt 6,3%, tức là cao hơn so với giai đoạn trước.
Báo cáo về tình hình kinh tế - xã hội năm 2025 trước Quốc hội tại Phiên khai mạc Kỳ họp thứ mười, Chính phủ dự báo, năm nay, GDP ước đạt 8%, cao nhất ASEAN và thuộc nhóm tăng trưởng cao nhất thế giới. Công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục là động lực cho tăng trưởng, giá trị tăng thêm cả năm ước đạt 10,71%; quy mô GDP năm 2025 đạt khoảng 510 tỷ USD, GDP bình quân đầu người trên 5.000 USD, tăng 300 USD so với năm 2024. Việt Nam chính thức trở thành nước có thu nhập trung bình cao, đạt mục tiêu đề ra. Với thế và lực mới, Việt Nam không quá khó để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế 2 con số trong giai đoạn tới.
Mục tiêu đến năm 2030 đạt mức GDP bình quân đầu người khoảng 8.500 USD được xem là một bước tiến quan trọng. Theo ông, cơ sở và điều kiện để Việt Nam hiện thực hóa mục tiêu này là gì?
Trong kinh tế học có công thức 7-10, nghĩa là nếu đại lượng nào đó tăng 7% mỗi năm thì sẽ tăng gấp đôi sau 10 năm; nếu tăng trưởng 10%/năm thì sau 7 năm quy mô sẽ tăng gấp đôi. Áp công thức này vào tăng trưởng kinh tế Việt Nam sẽ tính ra được quy mô nền kinh tế và thu nhập bình quân đầu người.
Năm 2025, quy mô GDP Việt Nam dự báo đạt 510 tỷ USD, gấp 1,47 lần so với năm 2020, xếp thứ 32 thế giới; thu nhập bình quân đầu người đạt 5.000 USD, gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình cao, được nhiều tổ chức quốc tế uy tín đánh giá cao. Chất lượng tăng trưởng kinh tế nước ta có bước chuyển biến tích cực, đóng góp của Các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế đạt khoảng 47% và sẽ đạt 55% trong thời gian tới. Nếu đạt tốc độ tăng trưởng 10%/năm, thì vào năm 2032, quy mô GDP nước ta sẽ đạt 1.020 tỷ USD và thu nhập bình quân đầu người tối thiểu 10.000 USD. Trong trường hợp chỉ tăng trưởng 7%/năm, mục tiêu này sẽ đạt được vào năm 2035. Như vậy, mục tiêu đến năm 2030 thu nhập đầu người 8.500 USD là có cơ sở khoa học.
Trong bối cảnh thế giới đầy biến động, đâu là giải pháp giúp Việt Nam giữ vững đà phát triển kinh tế - xã hội, thưa ông?
Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng nhận định, cục diện thế giới đang chuyển biến nhanh, phức tạp theo hướng đa cực, đa trung tâm, đa tầng và phân mảnh sâu sắc. Các nước lớn, các trung tâm quyền lực tiếp tục điều chỉnh chiến lược, vừa hợp tác vừa cạnh tranh, trong đó cạnh tranh về công nghệ, tài nguyên, thị trường và ảnh hưởng địa chính trị ngày càng gay gắt. Xung đột, chiến tranh cục bộ, chạy đua vũ trang công nghệ cao, chủ nghĩa bảo hộ và biến đổi khí hậu đang tạo ra những rủi ro mới đối với chuỗi cung ứng và thương mại toàn cầu. Trong 5 năm tới, Việt Nam phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, có những mặt gay gắt, nặng nề hơn so với giai đoạn trước. Nguy cơ bao trùm là nguy cơ tụt hậu, nhất là về công nghệ, năng suất lao động và rơi vào bẫy thu nhập trung bình.
Tuy nhiên, Việt Nam vẫn duy trì được ổn định chính trị, an ninh xã hội và môi trường đầu tư - đây là nền tảng quan trọng để phát triển nhanh và bền vững. Thực tế cho thấy, trong khi nhiều nền kinh tế lớn bị suy thoái sâu do các cú sốc tài chính và địa chính trị, Việt Nam chỉ suy giảm nhẹ về tốc độ tăng trưởng và nhanh chóng phục hồi. Các cú sốc từ bên ngoài như “cơn bão lớn” có thể quật ngã những cây cổ thụ, nhưng Việt Nam lại giống như bụi tre “sâu rễ, bền gốc” - các thành phần kinh tế gắn bó, linh hoạt thích ứng với biến động, giúp nền kinh tế đứng vững trước “sóng to, gió cả”. Kinh nghiệm vượt qua đại dịch Covid-19 là minh chứng rõ nét cho khả năng thích ứng, điều hành linh hoạt và sức chống chịu của nền kinh tế nước ta.
Theo tôi, để duy trì và củng cố sức chống chịu, cần xây dựng năng lực phục hồi quốc gia dựa trên năm trụ cột cơ bản.
Thứ nhất, bảo đảm an toàn tài chính vĩ mô thông qua kiểm soát lạm phát, nợ công, cân đối ngân sách và ổn định tiền tệ.
Thứ hai, nâng cao chất lượng quản trị nhà nước, cải thiện hiệu quả thể chế, tổ chức bộ máy và chất lượng nhân lực.
Thứ ba, phát huy hiệu quả vận hành của các thị trường, từ tín dụng, chứng khoán, bất động sản đến khoa học - công nghệ và dịch vụ.
Thứ tư, tăng cường sức mạnh nội tại của nền kinh tế thông qua nâng cao năng suất, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phát triển công nghiệp công nghệ cao và chuyển đổi số.
Thứ năm, phát triển, cố kết nền tảng xã hội, vun bồi bản sắc văn hóa và tinh thần đoàn kết dân tộc - nguồn lực mềm giúp đất nước vượt qua khó khăn.
Song song đó, Việt Nam đang triển khai “bộ tứ chiến lược” gồm: đổi mới, xây dựng và thi hành pháp luật; đột phá trong khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; phát triển mạnh khu vực kinh tế tư nhân và hội nhập quốc tế sâu rộng; đồng thời, thực hiện các đột phá trong giáo dục - đào tạo (theo Nghị quyết 71/NQ-TW) và chăm sóc, nâng cao sức khỏe nhân dân (theo Nghị quyết 72/NQ-TW). Đây chính là những bước đi căn bản, mở ra cơ hội lịch sử và tạo bước ngoặt cho sự phát triển mạnh mẽ của Việt Nam trong kỷ nguyên mới.
Mạnh Bôn
Nguồn Đầu Tư : https://baodautu.vn/nhieu-yeu-to-thuan-loi-ho-tro-viet-nam-thuc-hien-khat-vong-d418186.html