Nhìn lại con đường công nghiệp hóa của Việt Nam

Nhìn lại con đường công nghiệp hóa của Việt Nam
3 giờ trướcBài gốc
Ô tô - ngành mà doanh nghiệp nội đang tích cực đầu tư, đổi mới sáng tạo để tạo thương hiệu quốc gia. Ảnh: LÊ HOÀNG
Nói đến công nghiệp là bàn về khu vực công nghiệp chế biến, chế tạo (manufacturing sector). Đây là khu vực quan trọng và năng động nhất của hầu hết mọi nền kinh tế, là đầu tàu trong quá trình phát triển từ giai đoạn thu nhập thấp đến thu nhập cao. Năng suất tăng nhanh trong công nghiệp có thể được thực hiện bằng cách tăng lượng vốn trên mỗi lao động, bằng đổi mới sáng tạo, kể cả du nhập công nghệ, và mở rộng sản xuất để tận dụng lợi thế kinh tế nhờ tăng quy mô.
Một phần rất quan trọng trong sự thành công của các nước Đông Á là chuyển dịch cơ cấu nhanh chóng từ nông nghiệp sang công nghiệp. Đặc biệt trong giai đoạn dân số vàng, công nghiệp hóa phải được đẩy mạnh.
Công nghiệp hóa của Việt Nam còn ở mức thấp và giá trị gia tăng thấp
Trong trường hợp Việt Nam, khu vực công nghiệp cho đến nay chưa đóng được vai trò năng động. Có hai vấn đề.
Thứ nhất là công nghiệp hóa còn ở mức thấp: Sau đổi mới, công nghiệp hóa tiến triển một bước, khu vực chế biến, chế tạo ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong GDP và lao động có việc làm. Tỷ trọng trong GDP tăng từ 12% năm 1990 lên 19% năm 2005 và khoảng 24% năm 2024. Trong tổng lao động đang làm việc, khu vực đó tăng từ 12% năm 2005 lên 13% năm 2010 và 24% năm 2024.
Để kinh tế phát triển nhanh và đạt mục tiêu trở thành nước thu nhập cao trong 20 năm tới, trước mắt cần đẩy mạnh công nghiệp hóa cả chiều rộng (tăng tỷ trọng công nghiệp trong GDP từ dưới 25% hiện nay lên trên 30%) và chiều sâu (phát triển công nghiệp hỗ trợ và các sản phẩm trung gian) để tăng năng suất.
Tuy nhiên, so với kinh nghiệm các nước Đông Á, khu vực công nghiệp của Việt Nam chưa cho thấy một sự phát triển mạnh mẽ. Trong trường hợp của những nước phát triển thành công, khu vực công nghiệp thường chiếm trên 30% GDP vào nửa đầu của giai đoạn dân số vàng và có khuynh hướng giảm trong nửa sau khi kinh tế chuyển dịch sang giai đoạn hậu công nghiệp. Nhưng trong trường hợp của Việt Nam, hiện nay đã qua hơn bốn phần năm của giai đoạn dân số vàng (1980-2032) mà tỷ lệ của khu vực công nghiệp trong GDP nhỏ hơn nhiều so với tỷ lệ của các nước châu Á trong cùng giai đoạn.
Thứ hai, một vấn đề nữa là công nghiệp hóa của Việt Nam có tính chất mỏng, không sâu, tuy tham gia ngày càng mạnh vào chuỗi giá trị toàn cầu (GVC) nhưng mới ở vị trí là công xưởng lắp ráp đơn giản. Việt Nam nhập nhiều linh kiện và sản phẩm bán chế từ Trung Quốc và Hàn Quốc, lắp ráp gia công rồi xuất khẩu mà Mỹ là thị trường chính. Cơ cấu ngoại thương này phản ánh trên cán cân mậu dịch hiện nay: Việt Nam xuất siêu nhiều với Mỹ trong khi nhập siêu nhiều với Trung Quốc và Hàn Quốc. Cơ cấu này cho thấy tính chất của công nghiệp hóa hiện nay của nước ta và đây là cơ cấu không ổn định. Tính không ổn định nhìn từ Mỹ thì đã rõ. Công nghiệp hóa tùy thuộc nhiều vào nhập khẩu chủ yếu từ hai nước cũng không ổn định khi có thay đổi trong nội bộ hai nước đó.
Tỷ trọng thấp của công nghiệp trong GDP là nguyên nhân làm cho năng suất lao động thấp. Năng suất trong nội bộ công nghiệp của Việt Nam cũng thấp do tính chất lắp ráp, gia công như đã nói.
Để kinh tế phát triển nhanh và đạt mục tiêu trở thành nước thu nhập cao trong 20 năm tới, trước mắt cần đẩy mạnh công nghiệp hóa cả chiều rộng (tăng tỷ trọng công nghiệp trong GDP từ dưới 25% hiện nay lên trên 30%) và chiều sâu (phát triển công nghiệp hỗ trợ và các sản phẩm trung gian) để tăng năng suất.
Công nghiệp hóa theo chiều rộng
Công nghiệp hóa theo chiều rộng là mở rộng quy mô sản xuất và xuất khẩu những ngành đã có hoặc phát triển những ngành mới. Ngoài ra, môi trường kinh doanh thuận lợi, pháp luật, chính sách rõ ràng, doanh nghiệp sẽ tích cực đầu tư vào những lĩnh vực mới mà họ khám phá qua hoạt động nghiên cứu triển khai. Về chính sách cụ thể, tôi thấy nên quan tâm đến ba ngành là ô tô, bán dẫn và thực phẩm.
Về ngành ô tô:
Đây là hàng công nghiệp cao cấp mà thị trường trong nước và thế giới ngày càng lớn, quy trình sản xuất có sức lan tỏa đến nhiều ngành khác, thu hút nhiều lao động kỹ năng cao nên dễ tăng năng suất toàn nền kinh tế. Đây còn là một trong những ngành biểu tượng trình độ phát triển của một quốc gia. Hơn nữa, đối với Việt Nam, đây là ngành mà doanh nghiệp nội đang tích cực đầu tư, đổi mới sáng tạo để tạo thương hiệu quốc gia. Trong lúc nhiều ngành công nghiệp Việt Nam phát triển nhờ đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), và trong lúc ngành ô tô tại nhiều nước ASEAN do tư bản nước ngoài dẫn dắt, nếu ngành ô tô tại Việt Nam phát triển thành công nhờ nỗ lực của doanh nghiệp trong nước, đây là một điểm sáng nổi bật trong nền kinh tế hướng về mục tiêu thu nhập cao.
Ngành công nghiệp hỗ trợ rất quan trọng cho công nghiệp hóa. Trong cuốn sách xuất bản gần 20 năm trước Biến động kinh tế Đông Á và con đường công nghiệp hóa Việt Nam, tôi đã xem công nghiệp hỗ trợ là mũi đột phá chiến lược và đưa ra các khuyến nghị để phát triển ngành công nghiệp này... Bây giờ Nhà nước cần quan tâm đưa ra các chính sách và theo dõi việc thực thi một cách mạnh mẽ.
Do đó, Nhà nước nên có chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển ngành ô tô, kể cả linh kiện ô tô. Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc đều phát triển thành công ngành này. Việt Nam có thể tham khảo kinh nghiệm các nước và sớm lập ra chính sách để đẩy mạnh phát triển. Chính phủ và các doanh nghiệp lớn nên họp bàn kế hoạch phát triển, trong đó lập ra lộ trình nội địa hóa và các chính sách liên quan.
Về ngành linh kiện ô tô, Việt Nam đã phát triển một bước, hiện có hơn 550 công ty sản xuất linh kiện ô tô, trong đó có nhiều công ty, nhất là công ty có vốn FDI, chuyên về xuất khẩu. Nhưng so với Thái Lan (3.000 công ty) chẳng hạn, ngành linh kiện ô tô của Việt Nam nói chung còn nhỏ và yếu. Các ngành linh kiện ô tô không những cung cấp cho doanh nghiệp lắp ráp trong nước mà còn nên sản xuất cho xuất khẩu để có thị trường lớn, đạt tính quy mô kinh tế. Các ngành linh kiện ô tô xuất khẩu được có nghĩa là có sức cạnh tranh quốc tế, sẽ hỗ trợ hiệu quả cho nội địa hóa và sức cạnh tranh của các công ty lắp ráp trong nước. Về công cụ chính sách để phát triển ngành linh kiện ô tô, có thể tham khảo thêm phần nói về chính sách phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ được trình bày trong mục Chính sách thâm sâu công nghiệp hóa dưới đây.
Về ngành vi mạch bán dẫn (chip bán dẫn):
Tôi tán thành với chủ trương của Nhà nước là chú trọng phát triển ngành công nghiệp này. Ở đây chỉ đưa ra vài khuyến nghị về chính sách.
Vi mạch bán dẫn có hai loại chính là vi mạch nhớ (memory chip) và vi mạch xử lý (logic chip). Mỗi loại có nhiều thứ bậc theo chất lượng, từ loại thông thường có kỹ thuật vài chục nanomet (nanomet, một phần triệu milimet) đến loại tối tân nhất 2 nanomet. Quy trình sản xuất vi mạch bán dẫn có ba công đoạn chính là thiết kế, chế tạo và đóng gói/kiểm thử. Công đoạn thứ ba có hàm lượng lao động cao và giá trị gia tăng tương đối thấp nên chủ yếu được thực hiện tại những nước tiền lương rẻ. Nhưng tiền vốn đầu tư ở công đoạn này cũng rất lớn. Năm 2006, Intel của Mỹ đầu tư 1 tỉ đô la Mỹ vào Khu Công nghệ cao TPHCM (SHTP) để sản xuất bộ phận xử lý diễn toán trung khu (CPU) của máy tính, một loại quan trọng trong vi mạch bán dẫn. Cho đến nay Intel đã đầu tư tất cả 4,1 tỉ đô la Mỹ tại SHTP. Hiện tại Intel chiếm tới 70% thị phần thế giới về ngành này và khoảng 50% sản lượng của Intel được lắp ráp, đóng gói, kiểm thử tại Việt Nam. Nhà máy của Intel ở Việt Nam xuất xưởng từ năm 2010 và do đầu tư với quy mô khá lớn, Việt Nam đã trở thành một nước xuất khẩu vi mạch bán dẫn đáng kể, xếp thứ 5 trên thế giới vào năm 2021.
Vấn đề hiện nay của Việt Nam là trong bối cảnh thế giới đang mở rộng sản xuất vi mạch bán dẫn vì năng lực cung cấp chưa đáp ứng nhu cầu rất lớn và ngày càng tăng, Việt Nam nên tận dụng cơ hội thị trường và vị thế địa chính trị để tham gia vào các chuỗi cung ứng. Mặt khác, trong dài hạn, làm sao cố gắng từng bước nâng năng lực từ đóng gói, kiểm thử lên các công đoạn sản xuất, thiết kế.
Trong biến động địa chính trị thế giới hiện nay, các nước Mỹ, Nhật và nhiều công ty đa quốc gia đang cấu trúc lại chuỗi giá trị toàn cầu về vi mạch bán dẫn, một sản phẩm công nghiệp chiến lược lâu dài. Việt Nam có thể được chọn là một căn cứ sản xuất quan trọng. Thời cơ đang đến, Việt Nam cần chuẩn bị các điều kiện, các tiền đề để tận dụng tốt cơ hội này, nhằm phát triển các ngành công nghệ cao nói chung và vi mạch bán dẫn nói riêng. Việt Nam đã phụ thuộc nhiều vào FDI trong quá trình công nghiệp hóa vừa qua nên đây cũng là cơ hội để chọn lọc các dự án FDI chất lượng cao và chuyển dịch cơ cấu công nghiệp lên cao. Để tận dụng thời cơ này, cần cải thiện và chuẩn bị tốt các lĩnh vực sau:
Thứ nhất, khẩn trương cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao. Đặc biệt là kỹ sư cơ khí, điện tử có khả năng sử dụng tiếng Anh và công nghệ thông tin đang rất khan hiếm. Nhà nước nên hỗ trợ để các trường đại học tập trung đào tạo lĩnh vực này. Điểm này không được cải thiện sớm thì không thể có nhiều dự án FDI chất lượng cao. Liên quan việc phát triển vi mạch điện tử, vào tháng 10-2023 Chính phủ đã quyết định kế hoạch đào tạo 50.000 kỹ sư trước năm 2030 (hiện nay mới chỉ có 5.000). Đây là kế hoạch đầy tham vọng vì thời gian chỉ có 4-5 năm mà mục tiêu đề ra rất lớn. Bộ máy hành chính và các trường đại học cần chuyển động sớm và nhanh để đạt ít nhất phân nửa số kỹ sư trong kế hoạch.
Thứ hai, cần tập trung cải thiện hạ tầng. Ở phía Bắc đang thiếu điện trầm trọng. Ở phía Nam, nhất là tại TPHCM và vùng phụ cận, các khu công nghiệp đã được lấp đầy nên giá thuê đất rất cao. Những điểm nghẽn này nếu không sớm khai thông thì sẽ cản trở dòng thác đầu tư mới.
Thứ ba, hạ tầng phần mềm liên quan thủ tục hành chính và thời gian quyết định cấp phép, cấp visa hoặc giải quyết các vấn đề nảy sinh mà doanh nghiệp cần đến cơ quan công quyền cần được cải thiện liên tục. Từ thập niên 2000, khi các chuỗi cung ứng toàn cầu ngày càng trở thành trọng tâm của công nghiệp thế giới, yếu tố quyết định cạnh tranh giữa các quốc gia là thể chế. Vì thể chế, trong đó gồm thủ tục hành chính và sự minh bạch của các chính sách, ảnh hưởng đến chi phí và thời gian vận chuyển của linh kiện và sản phẩm giữa các cứ điểm sản xuất. Đối với năng lực cạnh tranh của một quốc gia, yếu tố thể chế này quan trọng hơn tiền lương hay giá đất. Việt Nam hiện nay còn yếu về mặt này.
Thứ tư, để thu hút các dự án đầu tư chiến lược như sản xuất vi mạch bán dẫn, Nhà nước cần có vai trò tích cực với các chính sách yểm trợ hiệu quả. Hiện nay, Mỹ, Nhật và nhiều nước khác đang triển khai các chính sách công nghiệp rất tích cực như hỗ trợ tài chính, miễn tiền thuê đất đầu tư... để thu hút các công ty hàng đầu đến sản xuất vi mạch bán dẫn.
Về ngành thực phẩm:
Việt Nam mạnh về nông nghiệp nhưng về công nghiệp thực phẩm thì còn rất yếu. Trên thị trường thế giới, năm 2023, Việt Nam là nước xuất khẩu gạo lớn thứ ba, cà phê thứ hai, hạt điều và hạt tiêu thứ nhất. Tuy nhiên, về thực phẩm nói chung, Việt Nam là nước nhập siêu.
Những nước thành công trong phát triển kinh tế đều chú trọng phát triển nông nghiệp. “Nông nghiệp phát triển” gồm ba nội dung. Thứ nhất là tăng năng suất lao động và năng suất đất canh tác nông sản. Thứ hai là tăng phẩm chất của nông sản và đa dạng hóa sản phẩm nông nghiệp theo hướng ngày càng tăng tỷ trọng của những mặt hàng có giá trị cao, có nhu cầu cao trên thị trường trong nước và thế giới. Đây là nội dung của cụm từ “nông nghiệp chất lượng cao” mà gần đây được nói đến nhiều ở Việt Nam và các nước. Thứ ba là kết hợp nông nghiệp với công nghiệp hóa, chế biến các loại nông phẩm thành hàng công nghiệp thực phẩm, đặc biệt là sản phẩm xuất khẩu. Ở giai đoạn thứ ba này, nông nghiệp cùng với thủy sản, hải sản cung cấp nguyên liệu bảo đảm chất lượng cho một bộ phận quan trọng của công nghiệp.
Quá trình phát triển nông nghiệp gồm ba bước ấy cũng là quá trình cải thiện không ngừng các cơ chế, cách tổ chức và áp dụng công nghệ trong sản xuất, lưu thông phân phối.
Ở đây đang bàn về công nghiệp nên chỉ nói về giai đoạn thứ ba. Hiện nay (năm 2023), 10 nước xuất khẩu nông sản và thực phẩm nhiều nhất hầu hết là những nước tiên tiến, đứng đầu là Mỹ (khoảng 170 tỉ đô la Mỹ) và thứ 10 là Bỉ (khoảng 50 tỉ đô la Mỹ). Xuất khẩu của Việt Nam chỉ bằng một phần ba của Bỉ và xếp thứ 4 trong các nước ASEAN. Từ thực trạng này, ta thấy Việt Nam chưa phát huy thế mạnh của tài nguyên nông - thủy sản, chưa kết hợp nông - thủy sản với công nghiệp. Dư địa mở rộng công nghiệp hóa từ nông - thủy sản là rất lớn. Cần rà soát lại các kế hoạch đã có như sản xuất lớn nông nghiệp và nông nghiệp chất lượng cao, đồng thời đẩy mạnh đầu tư (kể cả kêu gọi FDI và khuyến khích doanh nghiệp lớn tham gia) vào các chuỗi cung ứng thực phẩm.
Nhu cầu thực phẩm chất lượng cao trên thị trường thế giới đang và sẽ tăng nhanh. Đặc biệt tại vùng Đông Á, là thị trường gần kề Việt Nam, kinh tế tăng trưởng cao hơn các vùng khác, thu nhập đầu người tăng nhanh nên nhu cầu thực phẩm chất lượng cao cũng đạt quy mô lớn. Số người có thu nhập cao càng có nhu cầu thực phẩm chất lượng cao (hiện nay châu Á có khoảng 550 triệu dân có thu nhập 5.000 đô la Mỹ/năm trở lên), tạo ra thị trường rất lớn về thực phẩm chất lượng cao, nhất là thực phẩm và nước uống bảo đảm an toàn vệ sinh. Việt Nam nên phát triển mạnh công nghiệp thực phẩm theo hướng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Phát triển công nghiệp thực phẩm sẽ thúc đẩy nông nghiệp chuyển dịch theo hướng hiện đại, đa dạng hóa, và gắn kết sản xuất với thị trường thế giới, đưa nông nghiệp vào chuỗi giá trị thực phẩm toàn cầu. Chiến lược này còn đẩy mạnh công nghiệp hóa theo hướng mở rộng. Nhìn từ phương diện an ninh quốc gia, nông - thủy sản và thực phẩm cũng ngày càng quan trọng nên cần được chú trọng trong chiến lược phát triển.
Chính sách thâm sâu công nghiệp hóa
Thâm sâu công nghiệp hóa là tránh tình trạng lắp ráp, gia công - nguyên nhân của năng suất thấp, bằng việc đẩy mạnh sản xuất linh kiện và sản phẩm trung gian.
Để giải quyết tình trạng này, Việt Nam cần nỗ lực sản xuất thay thế nhập khẩu từ Trung Quốc và Hàn Quốc. Dĩ nhiên là không thể và không cần thay thế tất cả trong ngắn hạn hay trung hạn, nhưng cần có chiến lược, chính sách ngay bây giờ để thực hiện từng bước. Trước hết là có chính sách phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ.
Ngành công nghiệp hỗ trợ rất quan trọng cho công nghiệp hóa. Trong cuốn sách xuất bản gần 20 năm trước Biến động kinh tế Đông Á và con đường công nghiệp hóa Việt Nam, tôi đã xem công nghiệp hỗ trợ là mũi đột phá chiến lược và đưa ra các khuyến nghị để phát triển ngành công nghiệp này. Đã 20 năm nhưng nhiều chính sách vẫn còn thích hợp với tình hình hiện nay. Điều này chứng tỏ ngành công nghiệp hỗ trợ hầu như không phát triển trong thời gian dài nên công nghiệp hóa hiện nay vẫn mang tính chất lắp ráp, gia công. Bây giờ Nhà nước cần quan tâm đưa ra các chính sách và theo dõi việc thực thi một cách mạnh mẽ. Cụ thể, đề nghị các chính sách sau:
Thứ nhất, Chính phủ lập ra Ban đặc trách phát triển công nghiệp hỗ trợ. Ban này có trách nhiệm vạch ra chính sách cụ thể và theo dõi việc thực thi, định kỳ báo cáo với lãnh đạo về thành quả.
Thứ hai, Ban đặc trách làm việc ngay với đại diện doanh nghiệp lớn, kể cả FDI, để đưa ra lộ trình phát triển công nghiệp hỗ trợ, lập danh mục thứ tự ưu tiên các ngành cần phát triển và từng bước mở rộng danh mục này.
Thứ ba, ban hành luật về phát triển công nghiệp hỗ trợ. Luật này có thời hạn độ năm năm. Các doanh nghiệp tham gia được hỗ trợ về vốn, về thuế... trong thời gian đó, sau đó họ phải tự lực. Vào thập niên 1950, Nhật Bản có các biện pháp chính sách tương tự, ban hành các luật lâm thời trong thời hạn 5-6 năm và đã thành công.
Thứ tư, nếu ba điểm trên được quyết định và công bố, doanh nghiệp nước ngoài sẽ quan tâm đến đầu tư, kể cả việc lập liên doanh với doanh nghiệp Việt Nam, để tham gia phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ.
Đẩy mạnh theo chiều rộng và thâm sâu công nghiệp hóa là một trong những chính sách quan trọng để Việt Nam tăng trưởng tốc độ cao và đạt các mục tiêu năm 2030 và năm 2045.
GS. Trần Văn Thọ
Nguồn Saigon Times : https://thesaigontimes.vn/nhin-lai-con-duong-cong-nghiep-hoa-cua-viet-nam/