1. Trại sáng tác Quân khu 5 mới đầu là của Khu ủy Khu 5, sau Khu ủy không còn thì thành của Bộ Tư lệnh Quân khu 5. Trại này có những tên tuổi lớn, lớp trước lớp sau có tầng có bậc như: Phan Tứ (Lê Khâm), Nguyên Ngọc (Nguyễn Trung Thành), Thu Bồn (Hà Đức Trọng). Bùi Minh Quốc (Dương Hương Ly), Lưu Trùng Dương, Thanh Thảo, Trần Vũ Mai, Thái Bá Lợi, Thanh Quế, Cao Duy Thảo, Ngô Thế Oanh, Ngân Vịnh, Nguyễn Trí Huân, Nguyễn Khắc Phục… Đây là lớp văn nghệ sĩ tinh hoa trong hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, vừa hoành tráng vừa kiêu hãnh. Quản lý một trại viết như vậy, Nguyễn Chí Trung lúc nào cũng bận rộn: Bận lo hậu cần cơm - áo - gạo - tiền, bận lo cho các thành viên của trại sớm ổn định để ngồi viết…
Nhà văn Nguyễn Chí Trung (1930- 2016).
Thực ra hai phần ba các anh chị em "trại viên" đều đã có những tác phẩm danh tiếng tầm cỡ quốc gia. Thậm chí có một số tác giả lớn đã có sách in ở nước ngoài như Phan Tứ với "Bên kia biên giới", "Gia đình má Bẩy", "Mẫn và tôi"; Nguyên Ngọc có "Đất nước đứng lên", "Rừng xà nu"; Thu Bồn có "Trường ca Chim Chơrao", "Badan khát", tiểu thuyết "Dưới đám mây màu cánh vạc". Lớp đàn em sau, có Nguyễn Khắc Phục với "Bay qua cõi chết", "Học phí trả bằng máu"; Thanh Thảo có "Dấu chân qua trảng cỏ", trường ca "Những người đi tới biển"; Thái Bá Lợi có "Vùng chân hòn tầu", "Hai người trở lại Trung đoàn"; Nguyễn Trí Huân có "Mặt cát" và "Năm 1975, họ đã sống như thế"; Thanh Quế có "Trước nhà em sông Vu gia"…
2. Năm 1977, tôi mới được Tỉnh đội Gia Lai cho về Đà Nẵng để học đại học. Ở trường, tôi gặp thầy Hoàng Châu Ký, được nghe thầy giảng một "cua" khởi đầu khiến tôi như kẻ lạc đường lâu ngày tìm ra lối mở. Tôi mon men đem cái trường ca viết về chàng du kích Gia Rai "PuilK'Lớ" đang viết dở khoe. Thầy bảo để thầy giới thiệu cho mấy anh bạn của thầy ở Trại sáng tác Quân khu 5 như Nguyễn Chí Trung, Thu Bồn, Bùi Minh Quốc góp ý. Thực ra tôi cũng đã có quen mấy anh này. Năm 1976, Thu Bồn và Bùi Minh Quốc đã lùng sục tìm tôi khắp Tây Nguyên để đưa về trại. Nhưng hồi đó tôi đang rong ruổi trong các xã vùng sâu để làm cán bộ "tăng cường" về các buôn làng nên không ai tìm được…
Nhà văn Nguyễn Chí Trung và anh hùng tải đạn Alăng Bhuôch (năm 2012).
Một buổi chiều, thầy Hoàng Châu Ký đi họp về, cho người gọi tôi ra. Ông bảo: "Sáng nay mình có hẹn với anh Nguyễn Chí Trung, chiều cho cậu qua bên đó chơi, nhớ mang theo cái trường ca nhé".
Khi tôi đến, nhà văn Nguyễn Chí Trung đã ngồi sẵn bên bàn chờ. Ông vồn vã đón tiếp, hỏi han đủ thứ rất nhẹ nhàng. Tôi thì lóng ngóng, rụt rè. Bỗng ông hỏi: "Em có chơi với mấy anh ở trại đây chưa?”. Tôi nói: "Em chỉ biết anh Thái Bá Lợi, anh Thanh Thảo qua qua thôi ạ". Nguyễn Chí Trung hỏi: "Em có biết uống rượu không?". Tôi cảm thấy sướng rơn, vì đúng "sở trường" nên nói: "Em có. Em mời thủ trưởng ra kia làm vài li nhé". Bỗng Nguyễn Chí Trung nghiêm giọng: "Em về đây là để đi "cắm" ở Tây Nguyên, cấm em được đi theo hai anh này nhậu nhẹt, rượu chè".
Ông bảo tôi đọc thử một chương trường ca cho ông nghe. Tôi bảo: "Em không biết đọc thơ, em nhờ thủ trưởng đọc hộ". Tôi trao cái trường ca, bản đánh máy cho ông. Ông bảo, thôi em về đi, 3 giờ chiều mai qua đây gặp anh. Tôi về, khấp khởi cả đêm, chờ đến ba giờ chiều mai, phi xích lô đến. Vẫn bối cảnh y hệt hôm trước, nhưng ông tay cầm cái trường ca của tôi, không nhìn vào giấy mà ông đọc oang oang, đầy diễn cảm. Tôi lò dò ngồi vào ghế. Ông có vẻ khoái chí, bảo:
- Hay. Hay lắm.
Ông đọc mấy câu rồi ngồi xuống ghế đối diện với tôi, nói:
- Bây giờ em lấy xe cơ quan đèo anh vào gặp ông Ba, Cục Chính trị.
Ông xuống phòng mấy anh phục vụ nói một anh dắt cái xe máy ra. Anh này còn trẻ, nói tiếng Quảng, đưa cái xe ra trao cho tôi. Tôi đạp toát mồ hôi mà cái xe cứ kêu xoèn xoẹt, không nổ máy. Nguyễn Chí Trung đứng bên ra lệnh: "Nổ!"- "Nổ máy!". Tôi lại cong lưng đạp. Cái xe vẫn cứ ì ra. Ba bốn lần Nguyễn Chí Trung ra lệnh "nổ máy", ba bốn lần ục ục không nhúc nhích. Anh lính công vụ kia cười cười, ngoắc cái dây điện của máy vào đầu bu-di, bảo "được rồi đó". Tôi đạp nhẹ cần khởi động, cái xe nổ máy giòn tan. Thầy trò tôi vọt ra phố. Tôi chợt buồn cười nhớ lại chuyện lúc nãy ông "ra lệnh" cho cái xe nổ máy.
Tôi đã từng nghe anh Thái Bá Lợi kể nhiều giai thoại về ông hồi trên rừng Trà Mi. Ngày mới giải phóng, đi công tác Tây Nguyên, ông cùng ngồi xe con đi với anh em. Giữa đường đèo Măng Giang hiểm trở, vòng vèo, cao chất ngất mà ông không ngơi nhắc nhở cậu lái xe cẩn thận thế này, chú ý thế kia. Cậu ta khó chịu vì tính nhắc nhở nhiều không cần thiết của ông. Càng bị ức chế, bị nhắc nhở càng cho xe chạy với tốc độ cao. Ông liền ra lệnh rất gay gắt yêu cầu đồng chí lái cho xe dừng lại, họp… tổ đảng để chấn chỉnh tinh thần đảng viên.
Đến trụ sở Bộ Tư lệnh Quân khu, tôi dắt xe theo ông qua cổng. Người lính gác "chào các thủ trưởng" rồi chỉ dẫn cho chúng tôi đến dãy nhà cấp 4. Ông bảo tôi dựng xe đứng chờ. Ông vào gặp ông Ba. Tôi đứng ngoài hiên. Nghe tiếng ông từ trong phòng nói: "Báo cáo anh, cậu này là một trường hợp đặc biệt. Hắn vô Nam năm 68, nói giỏi cả tiếng Ba Na lẫn tiếng Gia Rai. Có truyện ngắn in trên Tạp chí nhà mình. Mới đây nó có cái trường ca viết về người anh hùng Gia Rai rất độc đáo". Nói rồi ông đọc trường ca của tôi.
Lặng đi một lúc, tôi nghe tiếng ông Ba: "Thế thì nhận cậu ấy về đi". Tiếng Nguyễn Chí Trung: "Tôi vô đây xin anh cho biên chế. Định đưa cậu này về "cắm" lâu dài trên Tây Nguyên". Tiếng ông Ba: "Thế làm thủ tục cho nó đi". Tiếng Nguyễn Chí Trung: "Đây, hồ sơ đầy đủ tôi làm sẵn đây rồi, anh chỉ cần ký "đồng ý giao cho Ban Tổng kết thực hiện" là được". Hồi ấy Trại sáng tác biên chế thuộc "Ban Tổng kết". Im lặng. Hình như ông Ba đang ký giấy. Tiếng Nguyễn Chí Trung: "Cậu ấy có đi cùng tôi đây". Nói rồi ông thò đầu ra cửa vẫy tôi lại. Tôi vào chào ông Ba. Xong! Thế là tôi trở thành thành viên Trại sáng tác, bỏ học bên trường văn hóa của thầy Hoàng Châu Ký luôn.
3. Anh Nguyễn Chí Trung trưởng thành từ thiếu sinh quân. Đi lính từ bé và làm cán bộ đại đội từ trẻ. Khi xây dựng đại công trình thủy lợi Bắc Hưng Hải, chàng trai trẻ, Chính trị viên đại đội Nguyễn Chí Trung là một trong những tấm gương điển hình tiên tiến "vắt đất ra nước, thay trời làm mưa" lẫy lừng. Rồi ông bươn chải trong đời lính. Vừa làm lính vừa viết văn với truyện ngắn lừng danh "Bức thư làng Mực". Một truyện ngắn viết về miền núi xuất sắc vào hạng nhất, dựng được không khí chiến tranh nhân dân ở Tây Nguyên với một bút pháp độc đáo, tinh tế và hấp dẫn khiến cả làng văn hồi đó sững sờ.
Nguyễn Chí Trung nổi tiếng ở Khu 5 thời chống Mỹ không chỉ vì tài viết văn. Ông còn là một chuyên viên cao cấp quân sự hàng đầu của quân khu. Ông thường xuyên xuống chỉ đạo tác chiến cho các đơn vị mỗi khi có chiến dịch. Ông cũng là một cán bộ tuyên giáo tự nguyện lo về công tác "chính trị tư tưởng" bồi dưỡng cho các chiến sĩ thi đua làm báo cáo thành tích. Ông là một cái kho tư liệu về các chiến dịch lớn nhỏ của Khu 5. Một người lính xông xáo khắp các chiến trường. Sau này, ông ra sống vào chết trên chiến trường Campuchia mới được phong hàm cấp tướng. Và cuối cùng ông vẫn là một nhà văn, một nhà văn tài hoa, sắc sảo, đặc biệt là tài thẩm định văn chương.
Khi nhà thơ Thu Bồn sáng tác trường ca "Badan khát" được Nguyễn Chí Trung đọc góp ý, sửa chữa, cắt tỉa. Có "dao kéo" của Nguyễn Chí Trung phát quang, tỉa tót, tác phẩm ấy mới được đánh giá là một trong những trường ca "xuất sắc hàng đầu viết về Tây Nguyên" sau giải phóng.
Ông có một cuộc đời phong phú, từng trải chiến trận và ông là một người lính tình nguyện hàng đầu trên chiến hào chống bọn diệt chủng Pôn Pốt. Cuối cùng, ông là nhà văn đoạt Giải thưởng văn học Asean với tiểu thuyết "Tiếng khóc của nàng Út". Đây là một thiên tiểu thuyết trữ tình giàu chất thơ mang đậm chất nhân văn và sự yêu thương con người của một bầu nhiệt huyết không bao giờ nguôi cạn. Dù ai cho đúng cho sai, bảo ông là gàn dở hay duy ý chí, duy mỹ, thì thì ông vẫn một lòng tự khẳng định mình qua những trang văn đẹp đến nao lòng.
Trong số 4 vị tướng gắn bó với Tạp chí Văn nghệ Quân đội, Thiếu tướng - nhà văn Nguyễn Chí Trung được xem là đặc biệt nhất. Mấy chục năm ông gắn bó với tạp chí; chỉ trước khi mất vài tháng (năm 2016), khi đã 86 tuổi, ông mới rời Chi bộ Tạp chí Văn nghệ Quân đội.
Trung Trung Đỉnh