Nhớ về cơ sở kiên trung

Nhớ về cơ sở kiên trung
5 giờ trướcBài gốc
Bà Mã Thị Phảy – người giúp việc cho Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng tại Hồng Kông Ảnh tư liệu chụp năm 1965, lưu tại Bảo tàng tỉnh Lạng Sơn
Nhà ông bà Mã Đình Nhân – Bế Thị Vay nằm trong một xóm nhỏ dưới chân núi Khưa Đa - Ma Mèo, cách Đồng Đăng khoảng 3 km. Bên này là đất Việt Nam, sườn núi bên kia là đất Trung Quốc. Bà Bế Thị Vay người dân tộc Nùng, sinh năm 1888, quê ở bản Phạc Lạn, xã Nhân Lý (nay là xã Hoàng Văn Thụ) về làm dâu ở Khưa Đa – Ma Mèo. Năm 1921, nhân sự kiện Nhân dân xã Tân Yên (sau đổi là Tân Mỹ) giết Tuần phủ Lạng Sơn Cung Khắc Đản tại đèo Pác Luống, thực dân Pháp tới đàn áp dã man, triệt hạ làng xóm, gia đình bà cùng một số người khác đã dạt sang Lũng Nghịu, Trung Quốc (cách biên giới Việt - Trung khoảng 3-4 km) lánh nạn. Tại nơi thung lũng hẻo lánh này, họ làm nương rẫy, đốt than, hái củi để sinh sống. Ông Mã Đình Nhân (sinh năm 1887) có thêm nghề công nhân kiểm lâm ở Long Châu. Ông bà có hai người con là Mã Khánh Phương (sinh năm 1910) và Mã Thị Phảy (sinh năm 1918.).
Tháng 1/1928, Hoàng Văn Thụ và Lương Văn Tri sang Trung Quốc tìm đến với tổ chức Hội Việt Nam Thanh niên Cách mạng ở bên kia biên giới. Qua giới thiệu của Hoàng Thình Chang (một người quen cũ của gia đình anh Hoàng Văn Thụ), các anh đã gặp được Mã Khánh Phương – con trai của ông bà Mã Đình Nhân, Bế Thị Vay. Nơi đất khách quê người, gặp được người đồng hương thân thiết, bà Vay vô cùng mừng rỡ và đã hết lòng giúp đỡ các anh. Sinh thời, ông Hoàng Văn Bính, cháu của đồng chí Hoàng Văn Thụ cho biết: Do lúc bé Mã Khánh Phương hay ốm yếu, khó nuôi nên năm lên 4 tuổi, gia đình bà Vay đã đến gửi số cho ông Hoàng Khải Xuân (bác ruột của Hoàng Văn Thụ), vì vậy giữa anh Thụ và nhà bà Vay có mối quan hệ rất thân tình như người nhà. Để đảm bảo bí mật, bà đã đưa các anh lên hang Áng Cúm – nơi có nương rẫy của gia đình ẩn nấp. Vào dịp tết đó, do có khó khăn, Mã Khánh Phương đã cùng Hoàng Văn Thụ trở về nhà ở Nhân Lý để xin tiền gia đình. Chính anh là người đã gặp cụ Hoàng Khải Lan (bố anh Thụ) để nói về việc xin tiền cho anh Thụ đang ở Trung Quốc. Bị cụ Hoàng Khải Lan từ chối với lời nhắn anh Thụ phải trở về tiếp tục đi học, Mã Khánh Phương lại cùng Hoàng Văn Thụ đến nhà người bạn gái cùng bản của anh xin giúp đỡ để các anh có thể trụ lại trong những ngày đầu bơ vơ tìm gặp tổ chức cách mạng.
Trong thời gian này, dù rất nghèo túng, gia đình bà Vay vẫn hết lòng cưu mang, che chở anh Thụ và anh Tri. Con trai bà nhận kết nghĩa anh em với Hoàng Văn Thụ, đồng thời cũng chính là người đã đưa các anh đến với tổ chức. Theo tài liệu của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, cuối tháng Giêng năm 1928, Mã Khánh Phương đã đưa Hoàng Văn Thụ, Lương Văn Tri đến Bản Đảy gặp ông Bùi Ngọc Thành – đại diện Hội Việt Nam Thanh niên cách mạng ở khu vực Lũng Nghịu - Long Châu. Từ đây, con đường cách mạng đã mở ra đối với hai thanh niên yêu nước của Lạng Sơn. Ít lâu sau các anh đã được bố trí gặp gỡ các đồng chí trong hội, từng bước tham gia hoạt động cách mạng ở Long Châu, Nam Ninh (Quảng Tây).
Sau khi thành lập Đảng 3/2/1930, quá trình sinh hoạt trong Chi bộ Long Châu, được giao nhiệm vụ gây dựng cơ sở cách mạng ở vùng biên giới Việt – Trung, đồng chí Hoàng Văn Thụ đã chọn Lũng Nghịu làm cơ sở, làm “bàn đạp” để phát triển phong trào về Lạng Sơn. Các tư liệu cho biết khi về Lũng Nghịu gây dựng cơ sở cách mạng đồng chí thường xuyên ở nhà bà Bế Thị Vay. Anh tiếp tục, chọn hang Áng Cúm làm nơi ẩn náu, làm việc để đảm bảo an toàn và thuận lợi cho thông tin, liên lạc. Lúc trong hang Áng Cúm, khi tại nhà bà Vay, đồng chí đã tổ chức ấn loát truyền đơn với sự trợ giúp của Mã Khánh Phương, Nông Khén Chang, Hoàng Chỉ Slen. In xong họ giúp đồng chí đem phân phát tới các tổ chức quần chúng ở Khưa Đa, Ma Mèo, Khưa Lếch, Tà Lài (Văn Uyên) để tuyên truyền, giác ngộ quần chúng. Với sự dìu dắt của đồng chí Hoàng Văn Thụ, giữa năm 1933, Mã Khánh Phương trở thành một trong năm đảng viên của Chi bộ Thụy Hùng – chi bộ Đảng đầu tiên của Lạng Sơn do đồng chí Hoàng Văn Thụ là Bí thư.
Đặc biệt, khi đồng chí Lê Hồng Phong (Thư ký Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng) về Long Châu chỉ đạo phong trào cách mạng, đồng chí Hoàng Văn Thụ đã đề nghị bố trí địa điểm hang Áng Cúm làm nơi tổ chức cuộc họp với đảng viên Chi bộ Thụy Hùng. Tại đây, tháng 4/1934 đồng chí Lê Hồng Phong đã tuyên bố thành lập Ban cán sự Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn (có vai trò như Tỉnh ủy lâm thời) gồm các đồng chí: Mã Khánh Phương, Đồng Viết Đại, Đoàn Viết Bứng, Đoàn Viết Cảnh, Nông Viết Bảo. Trong thời gian này, Mã Thị Phảy đã trở thành liên lạc viên của đồng chí Hoàng Văn Thụ, nằm trong đường dây giao liên từ Trung Quốc vào Việt Nam.
Tháng 4/1934, đồng chí Phùng Chí Kiên được Quốc tế cộng sản cử về tăng cường cho Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng tại Hồng Kông để khôi phục hệ thống tổ chức Đảng ở trong nước và chuẩn bị cho Đại hội lần thứ nhất của Đảng cộng sản Đông Dương. Đồng chí Hoàng Văn Thụ là một trong những người được phân công trợ giúp đồng chí Phùng Chí Kiên. Lúc này, đồng chí Bích Mai (quê Cao Bằng) phục vụ ở Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng đột ngột qua đời, phải tìm ngay người thay thế gấp vì theo quy định của chính quyền địa phương, người đứng ra thuê nhà phải là hộ gia đình, có nữ nên đồng chí Phùng Chí Kiên đã giao nhiệm vụ cho đồng chí Hoàng Văn Thụ giải quyết. Việc tìm một phụ nữ giúp việc cho tổ chức ở nước ngoài trong điều kiện lúc đó vô cùng khó khăn, phải biết cả tiếng Hán, đảm bảo an toàn bí mật, vượt qua định kiến thoát ly gia đình nên có người đã đi rồi lại quay về. Sau nhiều lần không thành, đồng chí Hoàng Văn Thụ quay về vận động thuyết phục bà Bế Thị Vay để bà đồng ý cho cô Phảy khi đó mới 16 tuổi xa nhà đi giúp việc cho Đảng. Cô Phảy đã vui vẻ lên đường đến nơi xa lạ để làm việc cho Đảng. Theo bố trí của tổ chức, Mã Thị Phảy đã đóng giả làm vợ đồng chí Phùng Chí Kiên để được tiếp tục thuê văn phòng, che mắt địch. Đồng chí Phùng Chí Kiên đặt tên mới cho cô là Mã Phù Dung và luôn coi cô như em gái của mình. Nhiều năm sau, khi đã trở về Việt Nam sinh sống, tuy ghi tên mình bằng tiếng Việt là Mã Thị Phảy nhưng bà vẫn thường ký tên bằng chữ Hán: Phù Dung. Các văn bản hành chính cũng thường ghi song song hai tên đó của bà. Trong thời gian đó, công việc hàng ngày của Mã Thị Phảy làm nội trợ, phục vụ cơm nước cho cán bộ của Đảng qua lại hoạt động, mua sách báo cho cơ quan, có lúc chuyển tài liệu cho các thủy thủ đưa về nước. Theo lời khuyên của anh Thụ, anh Phùng Chí Kiên, cô Phảy còn tranh thủ học tiếng, học thêm văn hóa, đọc sách báo tiến bộ để làm việc tốt hơn. Mã Thị Phảy đã trở thành một trong những tấm gương tiêu biểu của phụ nữ dân tộc thiểu số Việt Nam không quản ngại gian khó, hiểm nguy đi làm cách mạng.
Quá trình gây dựng, phát triển phong trào cách mạng ở Lạng Sơn, đồng chí Hoàng Văn Thụ, Lương Văn Tri đã được Mã Khánh Phương trợ giúp rất tích cực với vai trò là Ủy viên Ban cán sự Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn. Lịch sử đảng bộ tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 1930-1985 ghi rõ: “Năm 1935, Mã Khánh Phương đã cùng đồng chí Lương Văn Tri về Văn Uyên, Thất Khê để tuyên truyền cách mạng và lựa chọn thanh niên ưu tú đưa sang Long Châu dự các lớp huấn luyện cách mạng”. Tháng 5/1936 đồng chí Hoàng Văn Thụ, Lương Văn Tri, Mã Khánh Phương được Đảng cử về Bắc Sơn gây dựng, phát triển đảng, Mã Khánh Phương vừa thực hiện nhiệm vụ của Đảng vừa là người người dẫn đường, bảo vệ cho hai đồng chí Hoàng Văn Thụ, Lương Văn Tri. Dựa vào mối quan hệ họ hàng, Mã Khánh Phương đã đưa đồng chí Hoàng Văn Thụ, Lương Văn Tri đến một số gia đình quen biết của mình để gây dựng cơ sở quần chúng, tuyên truyền cách mạng, bồi dưỡng cảm tình đảng... Từ đó dẫn đến sự kiện thành lập chi bộ Đảng đầu tiên của huyện Bắc Sơn tại Mỏ Tát (xã Vũ Lăng) ngày 25/9/1936. Đây là chi bộ thứ hai được thành lập tại Lạng Sơn sau Chi bộ Thụy Hùng.
Khi đã trở về Việt Nam hoạt động, những khi qua lại Trung Quốc, đồng chí Hoàng Văn Thụ thường qua lại nhà bà Bế Thị Vay. Cách mạng tháng Tám thành công, gia đình bà trở về quê hương sinh sống. Có những đồ dùng gia đình được bà mang theo đã trở thành những kỷ vật quý của cách mạng Việt Nam, trong đó có chiếc cối xay ngô gia đình bà và đồng chí Hoàng Văn Thụ đã dùng thời kỳ ở Lũng Nghịu hiện đang lưu giữ tại Bảo tàng lịch sử quốc gia Việt Nam. Ông Mã Đình Nhân mất năm 1957, bà Bế Thị Vay cũng đã mất vào năm 1968.
Trở lại quê hương, hai người con của ông bà tiếp tục góp sức mình vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước. Mã Khánh Phương làm công tác văn hóa ở huyện Văn Lãng, có thời là người trông coi, hướng dẫn tham quan ở Bảo tàng Hoàng Văn Thụ ở xã Nhân Lý, ông mất năm 1982. Mã Thị Phảy vừa làm nông nghiệp, vừa tham gia công tác đoàn thể ở địa phương. Có lúc bà tham gia dạy chữ cho các lớp bình dân học vụ. Cả hai người con của bà Bế Thị Vay đều được Đảng, Nhà nước trao tặng những phần thưởng cao quý dành cho cán bộ hoạt động cách mạng thời tiền khởi nghĩa. Năm 1999, Chủ tịch nước Trần Đức Lương đã tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Ba cho ông Mã Khánh Phương và bà Mã Thị Phảy vì “Đã có công đóng góp vào sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc”. Năm 1998, bà Mã Thị Phảy còn được Chủ tịch nước Trần Đức Lương tặng thưởng Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Ba, bà mất năm 2008.
Gia đình ông, bà Mã Đình Nhân – Bế Thị Vay cùng hai người con là một trong những cơ sở quần chúng trung kiên tiêu biểu của cách mạng Việt Nam. Cuộc đời họ đã có những năm tháng vô cùng đáng nhớ và tự hào khi gắn liền với hoạt động của các đồng chí lãnh đạo tiền bối tiêu biểu của Đảng: Lê Hồng Phong, Hoàng Văn Thụ, Phùng Chí Kiên, Lương Văn Tri… Bên cạnh đó là quá trình xây dựng, phát triển tổ chức Đảng và các cơ sở quần chúng đầu tiên ở Lạng Sơn. Sự cống hiến, hy sinh thầm lặng của họ đã góp phần quan trọng vào thắng lợi vĩ đại của cách mạng tháng Tám năm 1945 đem lại độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam, tô thắm thêm truyền thống yêu nước và cách mạng của quê hương Xứ Lạng.
CHU QUẾ NGÂN
Nguồn Lạng Sơn : https://baolangson.vn/mot-gia-dinh-co-cong-voi-cach-mang-viet-nam-5056659.html