Những điều cần lưu ý trong báo cáo thị trường của OPEC

Những điều cần lưu ý trong báo cáo thị trường của OPEC
10 giờ trướcBài gốc
Hình minh họa
Biến động giá dầu thô
Tháng 7, giá giỏ dầu tham chiếu OPEC (ORB) tăng 1,24 USD so với tháng trước, đạt trung bình 70,97 USD/thùng. Giá dầu Brent kỳ hạn gần nhất trên sàn ICE giảm nhẹ 0,25 USD, xuống 69,55 USD/thùng, trong khi dầu WTI trên sàn NYMEX giảm 0,09 USD, còn 67,24 USD/thùng. Ngược lại, hợp đồng dầu Oman trên sàn GME tăng 1,93 USD, đạt 71,42 USD/thùng.
Khoảng chênh giá dầu Brent - dầu WTI thu hẹp 0,16 USD, còn 2,31 USD/thùng. Đường cong giá dầu Brent và dầu WTI tháng 7 phẳng hơn tháng trước nhưng vẫn ở trạng thái backwardation (giá giao ngay cao hơn giá kỳ hạn), còn dầu Oman ghi nhận backwardation rõ hơn. Các quỹ đầu tư và nhà quản lý tài chính tăng mạnh vị thế mua ròng dầu Brent, nhưng lại giảm đáng kể vị thế mua ròng dầu WTI.
Kinh tế thế giới
Kinh tế toàn cầu dự kiến duy trì đà tăng ổn định nhờ động lực mạnh từ nửa đầu năm 2025. Dự báo tăng trưởng toàn cầu năm 2025 được nâng nhẹ lên 3,0%, trong khi năm 2026 giữ nguyên ở mức 3,1%.
Mỹ: Nâng nhẹ dự báo năm 2025 lên 1,8%, 2026 giữ nguyên 2,1%. Nhật Bản: Giữ nguyên 1,0% (2025) và 0,9% (2026). Eurozone: Nâng nhẹ lên 1,2% cho cả năm 2025 và 2026. Trung Quốc: nâng nhẹ năm 2025 lên 4,8%, 2026 giữ nguyên 4,5%. Ấn Độ: Giữ nguyên 6,5% cho cả hai năm. Brazil: Giữ 2,3% (2025) và 2,5% (2026). Nga: Giữ 1,8% (2025) và 1,5% (2026).
Nhu cầu dầu thế giới
OPEC giữ nguyên dự báo tăng trưởng nhu cầu dầu năm 2025 ở mức 1,3 triệu thùng/ngày so với cùng kỳ, chỉ điều chỉnh nhẹ dựa trên số liệu thực tế quý 1 và quý 2. Trong đó, OECD tăng khoảng 0,1 triệu thùng/ngày, ngoài OECD tăng khoảng 1,2 triệu thùng/ngày.
Năm 2026, nhu cầu dầu toàn cầu được dự báo tăng 1,4 triệu thùng/ngày - cao hơn 0,1 triệu thùng/ngày so với dự báo trước nhờ triển vọng kinh tế tích cực. OECD dự kiến tăng khoảng 0,2 triệu thùng/ngày, còn ngoài OECD tăng khoảng 1,2 triệu thùng/ngày.
Nguồn cung dầu thế giới
Năm 2025, sản lượng chất lỏng từ các nước ngoài nhóm DoC (không tham gia Tuyên bố Hợp tác) dự kiến tăng khoảng 0,8 triệu thùng/ngày, giữ nguyên so với dự báo trước. Mỹ, Brazil, Canada và Argentina tiếp tục là các động lực tăng trưởng chính.
Sang năm 2026, mức tăng trưởng ngoài DoC được dự báo giảm nhẹ xuống 0,6 triệu thùng/ngày, giảm 0,1 triệu so với ước tính trước, nhưng các quốc gia dẫn đầu vẫn là Brazil, Mỹ, Canada và Argentina.
Với nhóm DoC, sản lượng NGL (chất lỏng khí thiên nhiên) và dầu phi truyền thống dự báo tăng 0,1 triệu thùng/ngày trong 2025, đạt trung bình 8,7 triệu, và tiếp tục tăng tương tự trong năm 2026, lên 8,8 triệu.
Theo số liệu thứ cấp, sản lượng dầu thô của nhóm DoC trong tháng 7 tăng thêm 335 nghìn thùng/ngày so với tháng trước, đạt khoảng 41,94 triệu thùng/ngày.
Thị trường sản phẩm dầu và lọc dầu
Tháng 7, lợi nhuận lọc dầu tại khu vực Đại Tây Dương phục hồi mạnh, nhờ chênh lệch giá của sản phẩm chưng cất trung bình duy trì ở mức cao.
Tại Bờ Vịnh Mỹ (USGC), tất cả các sản phẩm chính đều tăng lợi nhuận. Nguồn cung dầu diesel hạn chế và nhập khẩu dầu nhiên liệu thấp là yếu tố đẩy biên lợi nhuận lên. Ở Rotterdam, sản phẩm chưng cất trung bình sinh lời vượt trội so với hầu hết các sản phẩm khác (trừ dầu nhiên liệu lưu huỳnh cao - HSFO), phản ánh tình trạng khan hiếm dầu diesel.
Ngược lại, tại Singapore, lợi nhuận lọc dầu giảm so với tháng trước, chủ yếu do xuất khẩu sản phẩm dầu từ Trung Quốc tăng mạnh, gây áp lực lên cả các sản phẩm nhẹ và nặng.
Lượng dầu thô nạp vào các nhà máy lọc trên toàn cầu tháng 7 đạt 83,6 triệu thùng/ngày - mức cao kỷ lục, tăng 884 nghìn thùng/ngày so với tháng trước, và tăng 2,0 triệu so với cùng kỳ năm ngoái.
Thị trường tàu chở dầu
Tháng 7, giá cước tàu chở dầu thô (dirty tanker) giảm trên tất cả các tuyến do căng thẳng địa chính trị hạ nhiệt.
Tàu VLCC: Giảm mạnh nhất, trung bình -14%. Tuyến Trung Đông - châu Á giảm tới 20%, tuyến Trung Đông – châu Âu/Mỹ giảm 6%.
Tàu Suezmax: Giảm khoảng 5% tại khu vực Đại Tây Dương.
Tàu Aframax: Tuyến Indonesia - châu Á giảm nhẹ 1%, tuyến quanh Địa Trung Hải giảm khoảng 2%, dù cuối tháng có dấu hiệu hoạt động tăng.
Với tàu chở sản phẩm sạch (clean tanker), diễn biến trái chiều: Giá cước quanh Địa Trung Hải tăng khoảng 5%, trong khi tuyến Đông Suez giảm trung bình 11%.
Thương mại dầu thô và sản phẩm dầu
Tháng 7, Mỹ nhập khẩu trung bình 6,1 triệu thùng dầu thô mỗi ngày, gần như không đổi so với tháng trước, nhưng cao hơn mức thường thấy theo mùa. Xuất khẩu dầu thô của Mỹ giảm tháng thứ 5 liên tiếp, xuống chỉ còn 3,3 triệu thùng/ngày - thấp nhất từ tháng 3/2022, chủ yếu do lượng hàng sang châu Âu và châu Phi (đặc biệt là Nigeria) giảm mạnh.
Nhập khẩu sản phẩm dầu của Mỹ rơi xuống mức thấp nhất trong 8 tháng, còn 1,6 triệu thùng/ngày. Xuất khẩu sản phẩm dầu cũng giảm 3% so với tháng trước, đạt 6,7 triệu thùng/ngày nhưng vẫn ở mức cao.
Tại OECD châu Âu, số liệu sơ bộ tháng 6 cho thấy nhập khẩu dầu thô giảm theo mùa. Lượng nhập sản phẩm dầu cũng giảm 10% so với tháng trước ở hầu hết các nhóm hàng, trong khi xuất khẩu lại tăng nhờ xăng và dầu diesel bán ra nhiều hơn.
Nhật Bản tháng 6 ghi nhận nhập khẩu dầu thô xuống dưới 2 triệu thùng/ngày - mức thấp nhất kể từ tháng 6/2021. Nhập khẩu sản phẩm dầu giảm xuống mức thấp nhất 21 tháng (722 nghìn thùng/ngày), trong khi xuất khẩu phục hồi từ mức đáy, đạt trung bình 405 nghìn thùng/ngày.
Trung Quốc nhập khẩu 12,2 triệu thùng dầu thô/ngày trong tháng 6 - cao nhất trong 22 tháng, chủ yếu để bổ sung dự trữ. Nhập khẩu sản phẩm dầu giảm do LPG giảm mạnh, nhưng xuất khẩu lại tăng nhờ dầu nhiên liệu.
Ấn Độ tháng 6 nhập khẩu dầu thô giảm nhẹ xuống dưới 5 triệu thùng/ngày - lần đầu tiên trong 5 tháng. Ngược lại, nhập khẩu sản phẩm dầu tăng lên mức cao nhất 7 tháng (1,3 triệu thùng/ngày) nhờ LPG tăng 16%. Xuất khẩu sản phẩm giảm 3%, xuống gần 1,4 triệu thùng/ngày, chủ yếu do giảm bán sang châu Á và châu Âu.
Tồn kho thương mại
Số liệu sơ bộ tháng 6/2025 cho thấy tồn kho dầu thương mại của OECD ở mức 2,789 tỷ thùng, giảm 3,2 triệu thùng so với tháng trước. So với cùng kỳ năm ngoái, con số này thấp hơn 57,9 triệu thùng, và thấp hơn 91,7 triệu thùng so với trung bình 5 năm gần đây, thấp hơn 158,6 triệu thùng so với trung bình giai đoạn 2015-2019.
Dầu thô: Tồn kho giảm 9,6 triệu thùng so với tháng trước, xuống 1,348 tỷ thùng - thấp hơn 12,2 triệu thùng so với cùng kỳ năm ngoái, thấp hơn 47,3 triệu so với trung bình của 5 năm qua, và thấp hơn 117,4 triệu so với trung bình của 2015-2019.
Sản phẩm dầu: Tồn kho tăng 6,3 triệu thùng, lên 1,441 tỷ thùng - thấp hơn 45,7 triệu thùng so với cùng kỳ, thấp hơn 44,4 triệu so với trung bình của 5 năm qua, và thấp hơn 41,2 triệu so với trung bình 2015-2019.
Số ngày dự trữ dầu thương mại của OECD trong tháng 6 giảm 0,1 ngày so với tháng trước, còn 60,2 ngày - thấp hơn 1,4 ngày so với cùng kỳ năm 2024, thấp hơn 3,9 ngày so với trung bình của 5 năm qua, và thấp hơn 1,6 ngày so với trung bình 2015-2019.
Nhu cầu dầu thô của nhóm DoC trong năm 2025 giữ nguyên dự báo ở mức 42,5 triệu thùng/ngày, tăng 0,4 triệu so với năm 2024. Dự báo năm 2026 được nâng thêm 0,2 triệu thùng/ngày so với tháng trước, đạt 43,1 triệu - cao hơn 0,6 triệu so với mức dự kiến năm 2025.
Nh.Thạch
AFP
Nguồn PetroTimes : https://petrotimes.vn/nhung-dieu-can-luu-y-trong-bao-cao-thi-truong-cua-opec-731265.html