“Cờ Việt Nam oanh liệt gió mừng bay”
Đang từ thân phận nô lệ, tối tăm được nâng lên địa vị làm chủ, tự do là sự thay đổi cực kỳ lớn lao của con người, dân tộc Việt Nam. Hầu hết các sáng tác đều miêu tả đất nước theo mô hình một lễ hội, bừng dậy sinh khí mới, sức sống mới.
Tiết mục nghệ thuật chào mừng Chương trình gặp mặt cán bộ lão thành cách mạng, các đồng chí nguyên Ủy viên Trung ương Đảng nhân kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9. Ảnh: TUẤN HUY
Ngày 19-8-1945, hàng vạn người đã cùng vang giọng hào hùng: “Đoàn quân Việt Nam đi/ Chung lòng cứu quốc/ Bước chân dồn vang trên đường gập ghềnh xa...” (Văn Cao-“Tiến quân ca”). Nhịp đi của nhạc cũng là nhịp bước hành quân gợi liên tưởng về “đoàn quân Việt Nam đi” vượt qua “sa trường” để “tiến lên” về phía không gian lễ hội chiến thắng. Ngày 23-8-1945, tại Huế, hàng vạn người dân tập trung dưới rừng cờ đỏ sao vàng chứng kiến Ủy ban khởi nghĩa tiếp nhận chiếu thoái vị của Bảo Đại. Tố Hữu tái hiện một lễ hội đẹp nhất, rực rỡ và hoành tráng nhất, bằng thơ: “Đã dâng lên, ngập Huế đỏ cờ sao/... Một dân tộc đã ào ào đứng dậy” (Huế tháng Tám). Một năm sau, ngày 2-9-1946, Tố Hữu có bài “Vui bất tuyệt” hoàn thiện mô hình lễ hội với niềm vui vô biên tuyệt đỉnh: “Biển sống trào lên thành đại hội”.
Hầu hết các thi phẩm miêu tả không khí những ngày Cách mạng Tháng Tám chung mô típ hình ảnh đoàn người đông đúc, hồ hởi, âm thanh náo nhiệt, mừng vui. Còn gì vui hơn lễ hội mừng đất nước giải phóng đâu. Không chỉ có ở người, tinh thần lễ hội tràn thấm vào cả thiên nhiên, cây cối, cảnh vật: “Gió reo, gió reo, gió Việt Nam reo/ Mây bay, mây bay, mây hồng tươi sáng/ Gió ca trên non, gió ngợi trên đèo/... Hoa cỏ đón, mà núi sông cũng biết/ Cờ Việt Nam oanh liệt gió mừng bay” (Xuân Diệu-“Ngọn quốc kỳ”). Cả đất trời tràn ngập niềm vui, hừng hực khí thế. Người vui cảnh cũng vui là vậy.
“Chói lọi sao vàng, hoa vĩ đại”
Phương Đông cổ quan niệm trời đất có “tứ phương ngũ đế” tức bốn vị “đế” ở bốn phương: Phục Hi (phương Đông), Chuyên Húc (phương Bắc), Thiếu Hạo (phương Tây), Thần Nông (phương Nam), châu tuần quanh Trung ương Hoàng đế (“Hoàng” nghĩa là màu vàng. Khác với chữ “Hoàng đế” sau này chỉ vua, thì “Hoàng” nghĩa vĩ đại, rực rỡ). Theo thuyết ngũ hành, màu vàng ứng với đất (thổ), đại diện cho quyền uy thiên tử. Các triều đại phong kiến Trung Hoa thường cấm các nước “chư hầu” không được phép dùng màu vàng. Thế nên, từ khi Hai Bà Trưng khởi nghĩa cho đến mãi sau này, màu vàng luôn có ở lá cờ các triều đại. Ví như lá cờ triều Trần có chữ Trần màu đỏ nổi bật trên nền vàng, đã thể hiện một tinh thần tự chủ, độc lập, tự cường lớn lao.
Là một biểu tượng, nét nghĩa đầu tiên của lá cờ là tập hợp lực lượng, tập hợp sức mạnh đoàn kết. Để có lá cờ với nền đỏ tươi và ngôi sao vàng 5 cánh biểu tượng cho cách mạng, Bác Hồ kính yêu đã trăn trở cả mấy chục năm trời. Mùa xuân 1942, hình ảnh lá cờ phấp phới bay trong “Thơ chúc Tết năm 1942” của Người: “Chúc toàn quốc ta trong năm nay/ Cờ đỏ sao vàng bay phấp phới”. Đến khi trong lao tù, mất tự do, lá cờ chỉ tượng hình trong chiêm bao: “Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh” (Không ngủ được). Xuân Diệu rất hiểu ý nghĩa biểu tượng khi viết: “Nước cũ bốn nghìn năm/ Theo cờ mới, trẻ như hai mươi tuổi” (Ngọn quốc kỳ).
Cảm hứng vũ trụ hóa đồng nhất với cảm hứng hồi sinh. Trước cách mạng: U ám, ủ ê. Cách mạng về, bừng lên rực rỡ: “Có mấy bữa mà Việt Nam thắm cả/ Máu nén lâu từ ấy đã bùng ra/ Những cửa lều xơ xác cũng ra hoa/ Trên gốc cũ nẩy một chồi sống mới” (Xuân Diệu-“Ngọn quốc kỳ”). Kiến tạo biểu tượng mang tầm vũ trụ tạo nghĩa hồi sinh, Tố Hữu có những thi liệu lạ mà hợp lý, phơi phới niềm vui: “Ngực lép bốn nghìn năm, trưa nay cơn gió mạnh/ Thổi phồng lên. Tim bỗng hóa mặt trời/... Cuốn tung lên cờ đỏ máu thơm tươi/ Vàng vàng bay, đẹp quá, sao sao ơi!/... Việt Nam! Việt Nam! Việt Nam muôn năm!” (Huế tháng Tám). Các động tính từ mạnh, các danh tính từ có sức biểu cảm lớn: “thổi phồng lên”, “cuốn tung lên”, “máu thơm tươi”, “vàng”, “sao”... để tạo ra một không khí hừng hực cực kỳ sôi động, cũng đồng thời là thế giới tâm trạng cực kỳ hân hoan. Mọi hình ảnh, màu sắc, âm thanh đều phát sáng rực rỡ để nâng đất nước ngang tầm vũ trụ đẹp như “muôn màu vũ trụ kết hoa đăng”.
Có một mô típ tượng trưng cho cảm hứng hồi sinh tỏa sáng trong vũ trụ, là hình tượng kép gió-cờ sóng đôi bay trong nhiều tác phẩm thơ. Vũ Hoàng Chương trong “Nhớ về Hà Nội vàng son” miêu tả: “Ba mươi sáu phố, ngày hôm ấy/ Là những nhành sông đỏ sóng cờ/ Chói lọi sao vàng, hoa vĩ đại/ Năm cánh hoa xòe trên năm cửa ô”. Tả “gió” mà không có chữ “gió” nhưng vẫn cảm nhận và hình dung ra gió thổi (sóng cờ). Còn là sự liên tưởng đặc sắc: Hà Nội như một bông hoa nở năm cánh vĩ đại. Hoa có hương vị, màu sắc, là đẹp, là quý, là thiêng liêng. Phải nồng nàn yêu, sâu sắc tự hào mới có những hình ảnh ấy!
Bác Hồ - ngọn đuốc thiêng
Như một tất yếu nghệ thuật, người thiết kế, chỉ đạo, lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám thành công, cũng là người đọc Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam mới là Bác Hồ được tập trung miêu tả với những cảm hứng ngợi ca thiêng liêng. Tố Hữu trong thi phẩm “Hồ Chí Minh” ví Bác như người soi đường cho cả dân tộc: “Hồ Chí Minh/ Hỡi ngọn đuốc thiêng liêng/ Trên đầu ta, ngọn cờ dân tộc”.
Trong tác phẩm “Ngày Độc lập”, Xuân Thủy miêu tả Bác bình dị, mộc mạc nhưng lớn lao, kỳ vĩ: “Trên Chính phủ lễ đài lồng lộng/ Hồ Chí Minh, Người bỗng hiện ra/ Ka-ki bộ áo hiền hòa/ Long lanh đôi mắt đậm đà chòm râu.../ Nghe tôi nói, có rõ không đồng bào/ Thưa rõ lắm, trời cao đất rộng/ Lời mỗi lời rung động tâm can/ Chao ôi! Nước mất nhà tan/ Hôm nay lại thấy giang san bốn bề”.
Tiết mục nghệ thuật ngợi ca ý chí chiến đấu anh dũng và tinh thần đại đoàn kết - cội nguồn sức mạnh của dân tộc Việt Nam. Ảnh: TUẤN HUY
Có một bài thơ đặc biệt mà nhà thơ nữ Hằng Phương ghi “Kính gửi Hồ Chủ tịch” mang phong cách cổ thi về hình thức với nhiều từ Hán Việt trang trọng, nhưng nội dung mới mẻ, thời sự. Hai câu kết khẳng định Bác là một anh hùng: “Anh hùng mở mặt giang sơn/ Lưu danh thiên cổ, vẻ vang giống nòi”. Cuối bài trang trọng ghi: “Tháng Giêng, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, năm thứ hai (2-1-1946). Hằng Phương kính bút”.
Tấm lòng vàng của dân
Giành được độc lập nhưng ngân sách quốc gia cạn kiệt. Bác Hồ phát động “Tuần lễ vàng”. Từ ngày 17 đến 24-9-1945, nhân dân cả nước ủng hộ Chính phủ tài sản có giá trị quy đổi là 20 triệu đồng Đông Dương và 370kg vàng. Tiền vàng lúc này rất quý, nhưng quý hơn là sự ủng hộ của dân, niềm tin của dân với cách mạng. Ở ngày hôm nay đọc lại những câu ca dao cổ vũ “Tuần lễ vàng”, tuy nôm na nhưng ý nghĩa thì sâu sắc, thiết thực, thật đáng trân trọng vô cùng: “Nước nhà độc lập là vui/ Không cần vàng bạc, cần đời tự do/ Tự do đắt mấy cũng mua/ Máu xương đổi lấy cũng chưa đắt gì.../ Này cô! vàng giữ làm chi?”.
Đã hàng nghìn năm sống dưới chế độ phong kiến, đã gần trăm năm trong thân phận “một cổ đôi tròng”, thế nên, với dân tộc ta, độc lập, tự do quý hơn tất cả. Với dân ta, gia đình đồng nghĩa với Tổ quốc. Tổ quốc hạnh phúc, thì gia đình hạnh phúc: “Em còn bốn lạng hồi môn/ Với hai chiếc nhẫn đính hôn chạm rồng/ Đôi ta thuận vợ thuận chồng/ Đem dâng Tổ quốc một lòng như nhau/ Vàng giúp nước mất đi đâu?/ Tự do, độc lập về sau hưởng nhiều”.
Đảng ta và dân ta đã “đem dâng Tổ quốc” những gì quý giá nhất. Đó là lối sống Việt, đạo lý Việt. Điều ấy góp phần lý giải vì sao Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công triệt để, nhanh chóng. Đất nước hôm nay vươn mình vào kỷ nguyên mới, hãy cùng “Đem dâng Tổ quốc một lòng như nhau”. Hãy cùng dâng niềm tin, tài năng, tình yêu, lẽ sống để “Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”!
THANH TÚ